Về chữ viết tay của Einstein

Một bức thư viết tay có công thức nổi tiếng E = mc2 của Einstein mới được bán gần đây với giá hơn một triệu USD. Nhưng những bản thảo viết tay của Einstein còn chứa đựng nhiều điều khác về bản thân nhà khoa học.


 Albert Einstein vào năm 1920. Nguồn: ETH Library, University Archives, Hs 0304-1151-003, Public Domain.

65 năm sau khi qua đời, Einstein vẫn tiếp tục gây sự chú ý khi bức thư mà ông viết năm 1946 có công thức nổi tiếng E=mc2 vừa được bán đấu giá với giá 1,25 triệu USD (hình 1). Ông trở nên đại chúng đến mức một vài năm trước, một nhà sắp chữ Harald Geisler đã tạo ra một phông chữ máy tính dựa trên hàng trăm bản thảo viết tay của Einstein.

Font chữ này có thể không nổi tiếng bằng bức chân dung thè lưỡi của ông được treo đầy trong các phòng ký túc xá ở nhiều trường đại học, một biểu tượng khoa học mang tính đại chúng. Nhưng việc không chú ý đến những bản thảo viết tay của Einstein sẽ là một thiếu sót lớn. Bởi ngoài việc trị giá hàng nghìn hoặc hàng triệu đô la khi đấu giá thì chúng chính là một kho tàng thu nhỏ về cuộc đời đầy biến động của ông.

 

Chữ thảotrong tiếng Đức

 

Ở thời của Einstein, chữ viết tay quan trọng hơn nhiều so với bây giờ. Máy đánh chữ chỉ trở nên phổ biến khi Einstein đến tuổi 20 vào khoảng năm 1900 nhưng phần lớn các văn bản trao đổi, giao tiếp vẫn được viết tay. Điều đó có nghĩa là học viết bằng tay một cách sạch sẽ và dễ đọc là một kỹ năng sống quan trọng. Einstein đã dành phần lớn thời gian thời tiểu học để học viết. Các bài tập viết tay lặp đi lặp lại trong các hồ sơ chính là minh chứng của điều này.


Hình 1. Bức thư ngày 26 tháng 10 năm 1946 Albert Einstein gửi nhà vật lý người Mỹ gốc Ba Lan Ludwik Silberstein là một trong bốn trường hợp duy nhất bản viết tay phương trình E = mc2 nổi tiếng của Einstein. Bức thư được bán đấu giá vào tháng 5 với giá 1.243.708 USD. Nguồn: Ảnh do RR Auction cung cấp.

Phần lớn tuổi thơ của Einstein ở Munich, Đức, vốn là nơi mà tầm quan trọng của việc viết tay không phải là đặc biệt. Điều khác biệt là một số lượng lớn các bài tập viết tay mà ông đã học. Cùng với cách viết chữ in và chữ thảo mà đôi khi vẫn được dạy ngày nay, Einstein đã học một kiểu chữ viết thảo khác dành riêng cho tiếng Đức: Kurrentschrift, hay chữ viết Kurrent, ngày nay thường được gọi là “chữ viết cũ của Đức”.

Như trong hình 2, các chữ cái trong bảng chữ cái Latinh trong Kurrent trông khá khác với chữ thảo Latinh mà một số độc giả có thể đã học ở trường tiểu học. Bảng chữ cái Kurrent khó giải mã nổi tiếng; Hầu hết những người nói tiếng Đức bản ngữ ngày nay không thể đọc nó, và các nhà sử học như tôi cũng còn phải phàn nàn về nó.

Nó trông thật hoa mỹ, nét vòng quanh, thực sự mà nói là rất khó thông dụng. Rất nhiều chữ cái giống nhau. Chữ s và h viết thường trông rất khác so với chữ s và h trong bảng Latinh. Trong Kurrent, hai chữ này kéo rộng ra cả trên và dưới dòng của chúng. Còn nữa, s và h cũng trông rất giống nhau. Và nếu viết cẩu thả hoặc gấp gáp thì các chữ cái thường e, r, m và n trông cũng gần như giống hệt nhau. Do ngữ pháp của tiếng Đức thường liên quan đến việc phân biệt các mạo từ der, den và dem, trong số những mạo từ khác, sự giống nhau giữa các chữ cái đó trong tiếng Kurrent thường gây khó khăn cho việc phân tích ý nghĩa của một câu – đặc biệt là đối với những người không rành. Các chữ cái viết hoa cũng gây khó chịu tương tự: L, B và C rất giống nhau, J và T cũng vậy (Một mẹo là: Nếu bạn gặp một chữ cái viết hoa trong Kurrent mà không phân biệt được thì đó rất có thể là chữ G).

Tại sao tiếng Đức lại có hai chữ viết tay khác nhau? Câu trả lời cần phải quay trở lại thời Trung cổ. Vào khoảng năm 1150 xuất hiện một kiểu chữ mới gọi là “blackletter” (còn gọi là Gothic), biến đổi từ các tập lệnh thông thường khác. Nếu bạn đã từng xem một bản thảo thời Trung cổ thì rất có thể bạn đã xem kiểu chữ “blackletter”. Khi máy in được phát minh vào những năm 1400, những cuốn sách in đầu tiên – bao gồm cả Kinh thánh Gutenberg – được xếp chữ dạng “blackletter” (xem hình 3).

Không phải đến thời kỳ Phục hưng tiền thân của chữ viết tay hiện đại mới xuất hiện. Vào thời điểm đó, các nhà nhân văn như Petrarch (1304–1374) đã bắt đầu quan tâm đến các tác phẩm của người Hy Lạp và La Mã cổ đại. Họ đi khắp các tu viện để tìm kiếm những bản viết tay sớm nhất được biết đến của nhiều văn bản cổ khác nhau. Do tin nhầm rằng những bản thảo được viết vào đầu thời Trung cổ, phản ánh kiểu chữ của La Mã cổ đại, họ đã phát triển một loại chữ viết mới có tên là Antiqua. Vào cuối những năm 1700, các dẫn xuất của Antiqua đã dần thay thế các kiểu chữ “blackletter” ở Anh và phần còn lại của Tây Âu. Bạn đang đọc bài viết hiện tại bằng phông chữ dựa trên Antiqua. (Các loại bản tin dùng chữ “blackletter” vẫn tồn tại trong những trường hợp đặc biệt: Ví dụ: tiêu đề của tờ Thời báo New York vẫn sử dụng các phông chữ như vậy).


 Hình 2. Bảng chữ cái tiếng Đức trong hệ Kurrent. Học sinh tại các trường học ở Đức được dạy bảng chữ cái này hoặc tương tự cho đến năm 1941. Ở dưới cùng là các tổ hợp chữ cái bao gồm ch, ck, th, sch và st, rất phổ biến trong tiếng Đức. Nguồn: Trang từ Der Damen-Briefsteller, của Johann Thomas Loth, 1866, với sự cho phép của Andreas Praefcke/Wikimedia Commons/Public Domain.

Ở những vùng nói tiếng Đức hay các nước Bắc Âu và các quốc gia vùng Baltic, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Đức, việc sử dụng kiểu chữ “blackletter” – ở dạng được gọi là Fraktur – vẫn tồn tại trong suốt thế kỷ 19. Ví dụ, hầu hết các tờ báo tiếng Đức đều được in bằng chữ Fraktur cho đến sau Thế chiến thứ hai. Kurrent chính là dạng viết tay của chữ Fraktur.

Nếu coi các chữ cái viết hoa và viết thường là những chữ cái riêng biệt thì sinh viên tiếng Đức phải học cách đọc tám bảng chữ cái khác nhau: kiểu chữ Antiqua chúng ta sử dụng ngày nay, chữ thảo viết tay Latinh, kiểu chữ Fraktur và chữ viết Kurrent.

Einstein và Kurrent

 

Hầu hết các tài liệu của Einstein được viết bằng chữ thảo Latinh, bao gồm cả bức thư được đấu giá gần đây. Nhưng những thư từ sớm nhất của ông thì viết bằng chữ Đức cổ; và ông hầu như chỉ sử dụng nó cho đến khi ngoài 20 tuổi. Điều thú vị là Einstein đã từ bỏ việc sử dụng chữ viết Đức cũ của mình vào chính năm kỳ diệu 1905. Tháng năm năm đó, Einstein đã viết một bức thư bằng chữ Kurrent cho người bạn của mình Conrad Habicht thông báo về bốn bài báo của năm kỳ diệu. Đến tháng 7/1905, ông chuyển sang chữ viết Latinh và không bao giờ sử dụng chữ cũ nữa.

Lý do vì sao Einstein đổi kiểu chữ viết? Theo những gì được biết thì ông chưa bao giờ nói công khai về quyết định đó, nhưng có thể có hai lý do. Đầu tiên là tính phổ thông. Mặc dù tất cả các nhà khoa học nổi tiếng nước ngoài trong thời đại đó đều có thể đọc được tiếng Đức – vốn là một trong những ngôn ngữ chính của khoa học thời đó cùng với tiếng Anh và tiếng Pháp – nhưng họ vẫn phải vật lộn để đọc các chữ cái viết bằng tiếng Kurrent. Ngay cả những nhà khoa học nói tiếng Đức đã sử dụng Kurrent như Max Planck và Erwin Schrödinger (xem hình 4), cũng sẽ viết thư cho các đồng nghiệp nước ngoài của họ bằng lối chữ thảo Latinh (tất nhiên là vẫn bằng tiếng Đức). Chính vì lý do này mà hầu hết các tạp chí khoa học của Đức được in bằng chữ Antiqua thay vì chữ Fraktur từ giữa thế kỷ 19.


Hình 3. Những dòng đầu tiên của sách Sáng thế kỷ trong bản sao của Kinh thánh Gutenberg do Thư viện Bang Berlin lưu giữ. Kinh thánh Gutenberg được in bằng phông chữ “blackletter”; những ánh sáng phức tạp đã được thêm vào bằng tay sau khi các trang được in. Nguồn: Johannes Gutenberg, quét bởi Jossi, Wikimedia Commons / Public Domain.

Nhưng cũng có thể do một nguyên nhân thứ hai mà Einstein thay đổi kiểu chữ viết. Đó là vào khoảng năm 1900, khi một cuộc chiến tranh văn hóa làm chao đảo đế chế Đức. Các xu hướng tiên phong trên thế giới về nghệ thuật, văn học, âm nhạc và kiến trúc cùng tồn tại trong sự căng thẳng không dễ dàng với tham vọng đế quốc toàn cầu của Đức.

Chữ viết tay và kiểu chữ cũng bị lôi vào cuộc chiến văn hóa. Trong suốt thế kỷ 19, kiểu chữ Antiqua và chữ thảo Latinh dần dần xâm nhập vào giới học thức của Đức (các quốc gia khác sử dụng Fraktur, như các nước Bắc Âu, cũng bắt đầu chuyển sang Antiqua vào cuối thế kỷ 19.) Chẳng hạn, anh em nhà Grimm là những người ủng hộ nổi tiếng về phông chữ Antiqua. Các phông chữ dần trở nên gắn liền với giới trí thức tự do và thường được coi là một tín hiệu cho thấy người viết có tầm nhìn quốc tế hơn.

Có thể đoán được là xu hướng đó đã gây ra phản ứng dữ dội từ những người bảo thủ, đặc biệt là trong số những người ủng hộ các lý thuyết dân tộc chủ nghĩa, tiền thân của chủ nghĩa Quốc xã. “Tranh chấp Antiqua-Fraktur”, như nó đã được biết đến, lên đến đỉnh điểm trong một cuộc tranh luận sôi nổi tại Đế quốc Đức vào ngày 4/5/1911, trong đó đề xuất bắt đầu dạy trẻ nhỏ bằng tiếng Antiqua và chữ thảo La tinh đã nhận được 85 phiếu ủng hộ và 82 phiếu chống. Tuy nhiên, nó đã thất bại vì 397 thành viên không đạt được số tối thiểu. Nói cách khác, phần lớn Nghị sĩ dân biểu của Đức đã chọn cách né tránh câu hỏi. (Tranh chấp Antiqua-Fraktur cũng không phải là một ngoại lệ trong lịch sử; các cuộc chiến tương tự về những cải cách chữ viết tay hoặc kiểu chữ đã xảy ra trong thời kỳ này ở những nơi bây giờ là Thổ Nhĩ Kỳ, Nga và Trung Quốc).

Nói chung cũng có những ngoại lệ đối với những người bảo thủ thích Fraktur và Kurrent và những người theo chủ nghĩa tự do ưa thích chữ Antiqua và Latinh. Trước năm 1933, hầu hết các tờ báo tiếng Đức thuộc mọi khuynh hướng chính trị đều được in ở Fraktur. Vì vậy, nhiều bài viết phổ biến trước năm 1933 của Einstein đã được sắp chữ ở Fraktur. Những người lớn tuổi lớn lên cùng Kurrent – bao gồm cả những trí thức lỗi lạc như Planck và Sigmund Freud – thường tiếp tục viết chữ đó.

Nhưng khi đó dù thế nào thì việc chọn một kiểu chữ để viết tay cũng ngày càng trở thành một lựa chọn chính trị. Với tư tưởng hòa bình của Einstein và sự ghê tởm của ông đối với chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc của Đức, có vẻ như rất có thể Einstein đã chuyển sang chữ thảo Latinh vào năm 1905 vì lý do chính trị cũng như thực tế. Mặc dù sống ở Thụy Sĩ vào thời điểm đó nhưng có lẽ ông muốn báo hiệu với các đồng nghiệp nước ngoài rằng ông là người khoan dung, cởi mở với giao tiếp quốc tế và không phải là một người theo chủ nghĩa dân tộc Đức điên cuồng.

 

Chữ viết tay của Einstein

 

Sau khi thay đổi kiểu chữ thì chữ viết tay của Einstein vẫn nhất quán đáng kể. Nó rất giống chữ thảo vẫn được dạy ở một số trường học ngày nay.


Hình 4. Một bức thư của Max Planck ngày 11/1/1942. Chữ viết tay bằng Kurrent của Planck, mà ông chỉ sử dụng khi viết cho những người nói tiếng Đức bản ngữ khác, nổi tiếng trong giới sử học vì tính khó đọc của nó. Nhiều nhà khoa học thuộc thế hệ Planck đã sử dụng Kurrent cho đến khi họ qua đời. Nguồn: Max Planck, với sự cung cấp của Galerie Bassenge, Wikimedia Commons / Public Domain.

Một số người Đức vào thời Einstein đã chuyển sang viết bằng hệ thống chữ cái Latinh đã kết hợp các chữ cái kiểu Kurrent hoặc lai ghép vào hệ thống chữ viết Latinh của họ – phổ biến nhất là một dấu chấm nhỏ phía trên chữ u viết thường, trong Kurrent có nghĩa là để phân biệt nó với n và m. Nhưng Einstein đã tách khỏi Kurrent; chữ viết Latinh của ông không có bất kỳ dấu vết nào của chữ viết tiếng Đức cũ trong đó. Ông thậm chí còn ngừng sử dụng eszett (ß), chữ cái đặc biệt của Đức biểu thị sự kết hợp của “s dài” (ſ) và “s ngắn” (chữ viết thường được sử dụng ngày nay). (Chữ “s dài” không phải là duy nhất trong tiếng Đức mà nó được sử dụng trong tiếng Anh cho đến đầu thế kỷ 19, có thể thấy trên các tài liệu viết tay cũ hơn như Tuyên ngôn Độc lập). Hầu hết những người Đức chuyển từ Kurrent sang hệ chữ Latinh vẫn giữ lại eszett trong chữ viết tay của họ, và ngày nay nó vẫn được sử dụng trong tiếng Đức in và viết tay. Vòng lặp bổ sung vui nhộn trên chữ hoa E của Einstein không phải từ Kurrent; đó chỉ là một trong những điều thú vị riêng của mỗi người khiến tất cả chúng ta trở nên khác biệt.

Còn điều gì đã xảy ra với Kurrent và Fraktur? Trớ trêu thay, không phải chiến thắng của Đồng minh vào năm 1945 đã dẫn đến sự triệt tiêu của kiểu chữ này mà là một sắc lệnh của chính Đức Quốc xã. Mặc dù nhiều người Đức Quốc xã coi thường Antiqua nhưng Adolf Hitler thì không. Ông coi chữ Fraktur và Kurrent quá địa phương không xứng với những tầm nhìn cao siêu. Ông lập luận, nếu người Đức là tộc chủ, các dân tộc bị chinh phục sẽ cần phải có khả năng đọc ngôn ngữ của họ – và làm thế nào họ có thể làm được như vậy nếu tiếng Đức được in và viết bằng một thứ chữ khó giải mã như vậy? Trên đỉnh cao quyền lực của mình, vào tháng 1/1941, Hitler ra sắc lệnh loại bỏ Kurrent và Fraktur. Thật phi lý, ông ta tuyên bố rằng các chữ viết này được phát minh bởi người Do Thái. Những nỗ lực sau này nhằm hồi phục chữ Kurrent ở Tây Đức sau chiến tranh đã không đi đến đâu, và Đông Đức cộng sản không quan tâm đến việc phục hồi một kịch bản gắn liền với những người theo chủ nghĩa dân tộc bảo thủ. Ngày nay, hầu hết những người nói tiếng Đức hoàn toàn không thể đọc được kiểu chữ cổ này.□

 

Nguyễn Quang dịch

Nguồn: https://physicstoday.scitation.org/do/10.1063/PT.6.4.20210826a/full/

* Ryan Dahn là một nhà khoa học lịch sử, nghiên cứu về vật lý thế kỷ 19 và 20 trong các quốc gia nói tiếng Đức.

————

1. Cách viết chữ liền nét, từ từ này qua từ khác

Tác giả

(Visited 147 times, 1 visits today)