Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia – tình hình Việt Nam và bài học quốc tế

Bài viết chia sẻ những bài học kinh nghiệm thực tế từ quá trình xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp tại bang Ohio, Hoa Kỳ.


Logo của chương trình hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp OTF

Khởi nghiệp: trào lưu mới của quốc gia

Nếu như khoảng 10 năm trước đây, các khái niệm như “doanh nghiệp khởi nghiệp” (startup), “quỹ đầu tư mạo hiểm” (venture capitals), hay “nhà đầu tư thiên thần” (angel investors) vẫn còn khá xa lạ với xã hội Việt Nam thì nay thật không khó để bắt gặp thông tin về những vấn đề này trên các phương tiện thuyền thông. Các hội thảo chia sẻ kinh nghiệm khởi nghiệp của các doanh nghiệp thành công, những tọa đàm trao đổi về chiến lược kinh doanh, marketing, kêu gọi vốn đầu tư cho khởi nghiệp được tổ chức đều đặn và quảng bá thường xuyên trên các trang thông tin sự kiện lớn như Sukienhay.com hay Ticketbox.vn. Không dừng lại ở đó, những sự kiện ở quy mô thành phố, quốc gia đã và sắp diễn ra như Ngày hội Khởi nghiệp & Công nghệ Việt Nam (TechFest Vietnam) vào tháng 5/2015, cuộc thi Bánh xe Khởi nghiệp 2015 (Startup Wheel) do Trung tâm Hỗ trợ Thanh niên Khởi nghiệp (BSSC) trực thuộc Hội LHTN Việt Nam và Hội Doanh nhân trẻ TPHCM (YBA) đồng tổ chức vào tháng 8/2015, Sự kiện khởi nghiệp Startup Fair tại Đà Nẵng vào tháng 11/2015 v.v… đang thật sự góp phần đem các thông tin, kiến thức về các hoạt động khởi nghiệp đến gần hơn với cộng đồng.

Bên cạnh các sự kiện, các hoạt động liên quan đến đào tạo, huấn luyện khởi nghiệp cũng đang xuất hiện ngày một nhiều và hướng đến các đối tượng đa dạng từ doanh nghiệp khởi nghiệp đến các huấn luyện viên, những tổ chức, cá nhân hỗ trợ khởi nghiệp, tiêu biểu có thể kể tới chương trình đào tạo huấn luyện viên khởi nghiệp trong 2 tháng của Chương trình Đối tác Đổi mới Sáng tạo Việt Nam – Phần Lan (IPP), chương trình đào tạo khởi nghiệp của Hội đồng Anh với các chuyên gia đào tạo đến từ Anh Quốc, chương trình huấn luyện khởi nghiệp IstartX do Khu Công nghệ Phần mềm Đại học Quốc gia TP HCM tổ chức v.v…

Các CLB/Quỹ của các nhà đầu tư thiên thần (nhà đầu tư cá nhân cho khởi nghiệp) cũng dần được hình thành như CLB Hatch!Angels của một số nhà đầu tư thiên thần tại Hà Nội, CLB nhà đầu tư thiên thần thuộc CLB Doanh nghiệp Dẫn đầu (LBC) tại TP HCM, Quỹ Khởi nghiệp Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Vietnam Startup Foundation – VSF) do chủ nhiệm Đề án Thương mại hóa công nghệ theo mô hình thung lũng Silicon tại Việt Nam – trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đứng đầu, Quỹ Seed For Action (Ươm mầm hành động) do các nhà đầu tư người Việt Nam ở nước ngoài khởi xướng,…

Cùng với đào tạo và các sự kiện quảng bá, kết nối, có thể thấy các doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam hiện nay đang có không ít cơ hội để có thể kêu gọi nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế. Mới đây, sự quan tâm của xã hội đối với hoạt động khởi nghiệp tiếp tục được khẳng định một cách mạnh mẽ qua cuộc gặp mặt lần đầu tiên giữa Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và lãnh đạo các Bộ, ngành với cộng đồng khởi nghiệp để trao đổi, thảo luận về những khó khăn tồn tại và định hướng phát triển của hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam.

Nhu cầu về một hệ sinh thái khởi nghiệp

Tuy phát triển nhanh nhưng sự thật là đa số các hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam vẫn diễn ra một cách tự phát, chưa có hệ thống và sự kết nối chặt chẽ, thậm chí có ý kiến cho rằng nhiều hoạt động, sự kiện chỉ mang tính “phong trào” mà chưa thực sự giúp ích được hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Bên cạnh đó, từ trước đến nay cũng chưa có một nghiên cứu chính thức nào về số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam (chỉ có con số sơ bộ khoảng hơn 1000 doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực CNTT do tạp chí Techinasia tổng hợp), năng lực và lĩnh vực kinh doanh của họ, cũng chưa có thống kê chính thức về các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp, các sự kiện khởi nghiệp từ cấp tỉnh, thành phố cho đến cấp quốc gia. Những khó khăn về mặt thông tin và kết nối như vậy đang kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp cũng như các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp. Việt Nam đang cần một “hệ sinh thái khởi nghiệp” nơi mọi đối tượng từ nhà đầu tư, huấn luyện viên khởi nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm, các tổ chức ươm tạo, thúc đẩy kinh doanh có thể kết nối với nhau để có thể hỗ trợ một cách hiệu quả, đồng hành với doanh nghiệp khởi nghiệp trong cả quả trình phát triển, từ giai đoạn ý tưởng đến ươm mầm, tiếp cận thị trường, mở rộng quy mô và phát triển ổn định (thoái vốn).

Ohio Third Frontier – bài học cho Việt Nam

Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, ngày 25/08/2015 Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN đã tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của bang Ohio, Hoa Kỳ. Tại hội thảo, bà Lisa Delp, một trong những chuyên gia cố vấn của Chương trình hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp Ohio Third Frontier (OTF) đã có những trao đổi hữu ích với Ban Soạn thảo Đề án và các đại biểu về mô hình hỗ trợ khởi nghiệp của bang Ohio trong vòng 10 năm qua. 

Hệ sinh thái khởi nghiệp Ohio có xuất phát điểm khá tương đồng với tình hình hiện tại ở Việt Nam khi nền kinh tế dựa nhiều vào ngành nông nghiệp, không có nhiều các doanh nghiệp khởi nghiệp nổi trội, văn hóa khởi nghiệp mới chỉ đang nhen nhóm, nguồn vốn đầu tư hạn hẹp và luật của bang không cho phép Nhà nước đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau 10 năm triển khai, OTF đã tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp rất mạnh mẽ với các nguyên tắc cơ bản sau:

1) không hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp mà chỉ hỗ trợ cho các tổ chức trung gian để các tổ chức đó cung cấp các dịch vụ hỗ trợ hoặc đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp. 

Điều này thể hiện sự khẳng định bản thân Nhà nước sẽ không thể lựa chọn được doanh nghiệp “thắng cuộc” trên thị trường mà nhường lại việc lựa chọn đó cho thị trường quyết định. Một khi thị trường đã chọn ra được doanh nghiệp tiềm năng để hỗ trợ, Nhà nước sẽ cùng chia sẻ nguồn lực, rủi ro với các hỗ trợ đó để cùng đẩy nhanh quá trình phát triển của doanh nghiệp và giúp nhiều hơn các doanh nghiệp được hỗ trợ nâng cao năng lực, hỗ trợ về vốn.

2) không hỗ trợ cho từng tổ chức đơn lẻ mà lựa chọn các nhóm các tổ chức trung gian liên kết để cùng hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tại một vùng, một lĩnh vực nhất định; Nhóm liên kết phải có đủ khả năng để hỗ trợ một cách hoàn thiện chuỗi quá trình phát triển của doanh nghiệp khởi nghiệp (ý tưởng – hoàn thiện công nghệ – thử nghiệm thị trường – mở rộng quy mô – phát triển ổn định).

Nếu các đơn vị hỗ trợ khởi nghiệp hoạt động một cách riêng rẽ sẽ dẫn đến việc từng đơn vị có thể làm quá nhiều (cung cấp các dịch vụ phục vụ tất cả các đối tượng khởi nghiệp hoặc tất cả các bước trong quá trình khởi nghiệp mà không thực sự có chuyên môn sâu về lĩnh vực hỗ trợ nào cụ thể khiến cho các hỗ trợ mang tính hời hợt, hình thức), hoặc làm quá ít (ví dụ đơn vị làm sự kiện khởi nghiệp sinh viên chỉ làm đến mức tạo ra cuộc thi để có đội thắng, đội thua nhưng không mang được các dự án có tiềm năng đến tay của cơ sở ươm tạo chuyên sâu để hỗ trợ nhóm sinh viên tiếp tục được huấn luyện, nâng cao năng lực để trở thành doanh nghiệp khởi nghiệp thực thụ).

Nguyên tắc này đảm bảo được các đơn vị hỗ trợ khởi nghiệp phải thực sự kết nối với nhau và đưa doanh nghiệp từng bước qua cả quá trình khởi nghiệp một cách thuận lợi nhất (ví dụ đơn vị hỗ trợ khởi nghiệp ở bước ý tưởng sẽ kết nối với cơ sở ươm tạo để giúp phát triển những ý tưởng thật sự có tiềm năng; cơ sở ươm tạo sẽ phải kết nối với các tổ chức hỗ trợ về việc sản xuất thử nghiệm, marketing, tư vấn luật pháp, sở hữu trí tuệ để các doanh nghiệp sau khi hoàn thiện công nghệ thì có thể nhanh chóng xây dựng được sản phẩm/dịch vụ mẫu để đưa ra thử nghiệm thị trường và sau khi chứng minh được thị trường có thể xây dựng thương hiệu, mở rộng hoạt động kinh doanh).

3) Hỗ trợ của Nhà nước được thể hiện dưới dạng đối ứng vốn với các tổ chức trung gian đang tồn tại.

Điều này đảm bảo được Nhà nước không “tự nghĩ ra” các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp mới mà nâng cao năng lực, quy mô hoạt động của những tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp đang tồn tại và đã chứng minh được hiệu quả của họ trên thị trường. Tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp có thể đối ứng bằng tài chính hoặc bằng dịch vụ của mình. Ví dụ, một câu lạc bộ nhà đầu tư thiên thần sẽ đối ứng bằng chính khoản tiền mình đầu tư cho doanh nghiệp, chẳng hạn họ đầu tư 10,000 USD thì nhà nước có thể đối ứng thêm 10,000 USD nữa. Nhưng một văn phòng luật sư có thể đang cung cấp 20 giờ/tuần tư vấn miễn phí hoặc ít phí cho khởi nghiệp và dùng dịch vụ đó để đối ứng với khoản tiền nhà nước trả để họ cung cấp thêm 20 giờ/tuần nữa, như vậy có thể giúp họ hỗ trợ được gấp đôi nhu cầu của doanh nghiệp.

4) Cơ chế tuyển chọn dựa trên ý kiến của Hội đồng tuyển chọn và Ban cố vấn Chương trình là những nhà đầu tư, chuyên gia hỗ trợ khởi nghiệp có nhiều kinh nghiệm, được tuyển chọn dựa trên hồ sơ đăng ký độc lập. Hội đồng tuyển chọn có thể có một vài đại diện của Nhà nước nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Hội đồng tuyển chọn làm việc dựa trên trên tinh thần tự nguyện và tình nguyện (thậm chí không cần trả lương). Chỉ có Ban cố vấn Chương trình, những người thực hiện việc rà soát thông tin hồ sơ đăng ký, đánh giá trước thì có thể được trả lương công tác.

Toàn bộ quá trình tuyển chọn được công khai trên trang thông tin điện tử của Chương trình và thông qua các buổi tuyển chọn có sự tham gia của tất cả những người dân mong muốn chứng kiến; 

Điều này đảm bảo được Chương trình có tính minh bạch một cách tuyệt đối, nâng cao hiệu quả chọn lựa. Hơn nữa giảm thiểu được tối đa các hoạt động quản lý, hành chính liên quan đến Chương trình.

5) Không phải doanh nghiệp khởi nghiệp mà các tổ chức được hỗ trợ phải báo cáo về hoạt động của mình và sự phát triển của doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua hệ thống phần mềm chung.

Điều này giảm tải trách nhiệm và thủ tục báo cáo của doanh nghiệp mà chuyển trách nhiệm đó cho tổ chức hỗ trợ.  Các tổ chức hỗ trợ có thể cùng báo cáo về tình hình phát triển của một doanh nghiệp sẽ đảm bảo tính xác thực của thông tin.

6) Hiệu quả của Chương trình được đánh giá bằng số việc làm mà doanh nghiệp tạo ra và số vốn tư nhân mà các doanh nghiệp khởi nghiệp thu hút được.

Điều này khẳng định đó trách nhiệm của những người quản lý Chương trình không phải là trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Kể cả khi nhà nước không trực tiếp thu lại được số tiền mà mình bỏ ra thì hiệu quả cộng hưởng về mặt xã hội mới là quan trọng.  Hơn nữa, khi có thêm các doanh nghiệp được thành lập và phát triển tốt, nhà nước có thể thu lại được nhiều hơn từ các khoản thuế thu nhập của doanh nghiệp đó.

 Những kinh nghiệm của bang Ohio được các đại biểu tại Hội thảo và Ban Soạn thảo cho rằng rất phù hợp để áp dụng tại Việt Nam, đặc biệt là khi sự liên kết giữa các tổ chức trong hệ sinh thái khởi nghiệp của nước ta còn yếu và vấn đề về tính minh bạch, hiệu quả của nguồn vốn đầu tư nhà nước đang được xã hội quan tâm. Sau buổi hội thảo và thời gian trao đổi sâu với chuyên gia, Ban Soạn thảo đã tiếp thu một số kinh nghiệm của bang Ohio để sửa đổi, bổ sung vào Dự thảo Quyết định phê duyệt Đề án.

Mô hình tổ chức của Third Frontier

Cơ chế hoạt động của Third Frontier 

Kết luận

Xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp là một nhiệm vụ khó khăn, dài hạn và chưa có tiền lệ tại Việt Nam. Do đó, trong quá trình thực hiện, sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các đơn vị tư nhân, chuyên gia có kinh nghiệm là vô cùng cần thiết để các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đến gần hơn với cộng đồng, đồng thời những hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp được thực hiện chuyên nghiệp, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu trên chặng đường phát triển của doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam.

Tác giả

(Visited 6 times, 1 visits today)