Chuyện Thày Trò, Tây Ta…
Giống như hầu hết các bạn hôm nay, tôi có may mắn được làm học trò từ bé. Và chính hôm nay, may mắn thay, tôi vẫn được làm học trò, vẫn đi học thêm những cái mình thích học trong thể thao, âm nhạc... Rồi tôi cũng đã làm thày giáo ở trường đại học đôi chút ở quê nhà, gần nhất là tí chút hè năm nay. Và tôi cũng đã làm thày giáo một thời gian ở trường đại học xứ ngoài, ở Paris. Cho nên những kỉ niệm thày trò đan nhau thật chồng chéo, nhiều hương vị, nhiều thứ chung nhau, mà nhiều thứ cũng thật khác nhau mênh mang.
Học trò ở ta khi nhỏ thấy thế giới thày cô thật xa vời. Nền giáo dục xưa thì chỉ có thày. Cô là mãi gần đây. Cô chính là thày, thày giáo nữ.
Chữ thày trong tiếng ta chính là “bố”. Trong nhà xưa có thể gọi bố mẹ là “thày bu”, xưng là con hoặc em. Khi đến lớp (hoặc thày đến nhà dạy), thày thay mặt bố mà dạy con, nên quan hệ tiếp tục là “thày – con” hay “thày – em”. Nhưng sau này người ta không gọi giáo viên nữ là “bu”, không biết có nên đáng tiếc việc đó hay không? Một chữ là ơn thày, nửa chữ là nhờ thày. Trẻ phải kính thày như kính cha. Cha xử con chết, con không chết là đồ bất hiếu.
Các bố mẹ xưa góp gạo nuôi thày thường đều là những người chưa từng được có chữ. Họa chăng đôi nhà cũng có biết chữ, nhưng mới vài ba chữ, chưa đủ để dạy nhau. Chữ ngày xưa là thứ chữ thiêng liêng của thánh hiền, thứ chữ không đánh vần được, học chữ nào biết chữ đó, nhầm là chuyện thường. Sự hơn kém nhau ở thời xưa hóa ra rất lượng tử, rất rõ ràng, chứ không rối rắm như hôm nay : đếm xem tổng số lượng chữ mỗi ai đã biết là biết tài. Cứ thế mà ra tiêu chuẩn bầu giáo sư với tiến sĩ thì kể cũng tiện. Trong một xã hội sơ giản như thế, ai có chữ cũng thành thày. Ta có thày chữ. Ngoài ra thì ai có hiểu biết hơn người xung quanh chút đỉnh, thậm chí có vẻ hơn thôi, thì cũng thành thày : có thày thuốc, thày võ, thày địa lý, cũng có cả thày tướng, thày số, thày bói, thày mo.
Cái nếp đó, học trò và gia đình ta đến hôm nay vẫn giữ được gần như nguyên vẹn, với những hiệu ứng tân kì.
Các cô (hầu như không có thày) dạy trẻ ở nhà trẻ có vai trò giáo dục thật ra rất quan trọng, nhưng do các cô chưa dạy “chữ”, nên xã hội ngầm coi thường họ hơn, xem như họ “chưa phải ra thày”. Chuyện này lại sẽ phải có bài bàn riêng.
Các giáo viên phổ thông thì giữ được ảnh hưởng cổ truyền lớn lao nhất. Gia đình và trẻ em cư xử với các thày cô này gần như trong mối quan hệ cổ truyền nguyên trạng, thày cô là cha là mẹ học sinh. Ngày nhà giáo, trẻ em đã đành, nhiều bạn bè nay đã trở thành ông thành bà, có cháu nội ngoại rồi, cũng vẫn nô nức í ới từ cả tháng để rủ nhau đi thăm thày cô dạy phổ thông hồi xưa. Đó là một nét đặc biệt nhất trên thế giới ! Nhưng kì lạ thay, các thày cô dạy Đại học thì lại không còn được hưởng cái lòng thành kính trung trinh này! Ngày lễ này rất thoảng qua ở các trường đại học, so với bậc phổ thông. Nhất là khi các sinh viên đã tốt nghiệp, thì hầu như không có chuyện họ phải í ới nhau đi thăm lại thày với cô của thời đi học đại học nữa. Họ chỉ phải lo cái bổn phận đi thăm lại thày với cô thời tiểu học và trung học mà thôi.
Từ điều này ta có thể thấy ra nhiều mặt.
Đối với xã hội, gia đình, học đại học không phải là cái thứ sống chết nữa. Các thày cô ở đại học nay dạy kiến thức, chứ không phải là những bậc « dạy chữ », bậc « khai chữ » thiêng liêng.
Đối với sinh viên, họ không còn là đám trẻ con ne nét nữa. Cái yêu mến thày cô ngày xưa ở tiểu học và trung học có nội dung lấm lét ở bên trong, nay với thày cô ở đại học, « sợ » thì có “sợ” nhưng không đến nỗi “khiếp”. Bỗng nhiên mặc cảm cha mẹ – con cái ở họ tan biến đi. Nếu thày với cô lại mới ra trường, thì sự chênh lệch tuổi tác so với sinh viên lại càng ít đáng kể hơn. Các thày cô ở đại học mặt khác cũng biết tự kiềm chế hơn, cư xử bình đẳng hơn đối với các sinh viên… Cho nên người ta có cảm giác, và tự cho phép nữa, rằng quan hệ thày trò ở bậc đại học được phép “nhạt” đi.
Khi sang Paris, tôi lại có dịp đi học, với những xúc cảm mới.
Có những giáo viên tận tình đến thế. Để kịp chuẩn bị tài liệu cho năm học tới, một ông giáo gọi điện hỏi tôi địa chỉ, rồi mấy hôm sau chạy ôtô đến tận nhà để đưa cho tôi giáo trình, rồi động viên cố gắng, rồi hẹn khi vào năm học sẽ gặp lại nhau để trao đổi chương trình! Lúc này đang là mùa hè ! Thày trò quả là những người bạn, làm sao để cùng nhau thành công cái việc chung : viêc dạy và học.
Cả năm học trôi qua, không thấy xã hội có cái ngày lễ giáo viên ầm ĩ nào cả. Ở các trường phổ thông cũng vậy. Rất nhiều bố mẹ hầu như còn không hề biết tên, không biết cả mặt giáo viên! Bận quá, ai việc nấy thôi. Trong xã hội cũng vậy, không thấy đài báo tuyên truyền, ngợi ca thống thiết gì về giáo dục, về thày cô cả.
Thế rồi về sau tôi cũng bắt đầu tham gia giảng dạy về bộ môn Công nghệ Thông tin và Quản lý ở vài trường đại học.
Đi dạy CNTT cho sinh viên các ngành khoa học tự nhiên, như khoa Toán – CNTT, thì … vất vả! Các vị này có tư duy gần gụi với các thuật toán. Cả lớp toàn con trai, may được vài ba cô gái kéo mắt lại. Những giờ bài tập thì mình phải chuẩn bị ém số lượng bài lên gấp đôi lên, kể cả các cách giải, đề phòng các vị giải bài nhanh quá rồi ngồi chơi, không biết làm gì. Coi chừng nhất là mấy anh chị cao thủ giải bài như bay ! Được cái các bạn giỏi ở đây thường cũng không có lối chơi trội, mà nhã nhặn đợi chờ bạn bè, hoặc giúp đỡ lẫn nhau.
Còn đi dạy ở bên mấy trường KHXH thì như đi chấm thi hoa hậu. Cả lớp chỉ có mấy mống con trai nhút nhát, còn lại toàn là các bạn gái thanh tú, tao nhã, thích nói chuyện bên lề nhiều hơn là giải bài… Giờ nghỉ thì cùng xuống lấy càfê, ra bãi cỏ ngập nắng mênh mông, ngả ngốn tán đủ thứ chuyện.
Nhưng chả bao giờ có cái ngày lễ học trò ôm hoa thẹn thùng chúc thày gì cả! Chạnh lòng nhớ năm nào về chuyện trò vui vẻ với các bạn ở khoa Quản lý trường ĐHQG HN, cuối giờ được các bạn tặng hoa, phát biểu cảm tưởng, được chụp ảnh, lúc chụp ảnh bạn lớp trưởng lại còn khéo ý tứ đẩy mấy bạn gái xinh nhất lên đứng cạnh thày… Làm thày như thế, thích quá a.
Cũng phải công bằng, có một năm nọ, vào cuối một buổi học, một cô sinh viên vốn khá thân trong lớp, cô Marie, đã nhã ý mời mấy bạn trong nhóm cùng đề tài và tôi cùng thưởng thức đĩa bánh cô làm, và dùng nước quả… Thế rồi Marie bất ngờ tặng tôi cây hoa xương rồng bé xíu thật xinh xắn ! “Hôm nay là Tết ! Chủ nhật vừa rồi bọn em đi ăn phở nên phát hiện ra ngày này ! Với sáu giờ lệch pha, nào ta nâng cốc chúc Giao Thừa! “. Lòng tôi bất ngờ tràn dâng sung sướng, chợt nuôi nao nhớ quê nhà… Tôi ôm hôn cảm ơn Marie và chúng bạn.
Mình bao giờ cũng phải sống hai lần. Sống, và nghĩ lại về cuộc sống.
Đáng nhẽ Thiên nhiên phải cho ta hai cuộc đời để làm hai cái việc đó thật tách bạch thảnh thơi.
Nghề nào cũng đáng tôn quí. Ở các xứ sở đã phát triển, nếu các ngành mà bãi công, ta sẽ thấy ngay rằng ngành vệ sinh công cộng là quan trọng nhất, rồi thì năng lượng, giao thông, y tế, thương mại… Ngành giáo dục mà bãi công thì cũng chưa chết ai ngay. 😉
Tại sao xã hội người ta nền nếp như thế về giáo dục, từ nhà trẻ cho đến trên đại học, mà không cần tuyên truyền, không cần tôn vinh, không cần phải nô nức đi thăm thày thăm cô dạt dào cảm xúc ? Vì ngành giáo dục của họ, như mọi ngành khác trong xã hội, đã sống thật, đã chạy trong qui củ. Trường sở khang trang. Chương trình đàng hoàng. Giáo viên được trả đồng lương chính đáng. Đơn giản, có thế thôi.
Sự tôn kính ồn ào, đẫm lệ ở xứ ta nhiều khi lại chính là cái vỏ vờ vĩnh để che lấp đi cái chật vật nhọc nhằn của ngành giáo dục, nhiều khi đành chịu cả nhục, của đời sống của các thày cô. Có lẽ không gì khổ bằng việc người giáo viên không có đồng lương đàng hoàng, phải để dành những ngón nghề để dạy tủ thêm mà kiếm sống ! Đáng nhẽ khi dạy học, khi san sẻ kiến thức, lúc đó chính là những khoảnh khắc của niềm vui vô bờ. Đằng này phải sống như đi đêm, thày vào lớp dạy, nửa này của lớp tối qua đã học thêm với mình, còn nửa kia của lớp thì không hề hay biết gì, hay nghi hoặc hoặc nghi…
Và người đi học, cứ phải lo suốt năm “cư xử thế nào đây, phong bì, quà cáp, học thêm…” để rồi được thày cô dạy cho cái đáng dạy, cái đảm bảo thi đỗ, chứ không dạy cái thứ vô tích sự cho xong ?
Không phải lập tức mà chúng ta sẽ giải được câu chuyện này, nhưng phải có quyết tâm, phải có lộ trình, để rồi phải có bằng được cái nền giáo dục giản dị ấy. Và toàn xã hội, mọi lĩnh vực rồi phải vào nếp, phải vào qui củ, phải đĩnh đạc, phải đàng hoàng.
Không lúc nào tôi quên đươc cái hình ảnh tuy đã rất lâu, cái ngày nào tôi đã bất chợt thoáng gặp lại người thày rất quí mến khi xưa dạy ở lớp ba, nhưng lại rất ưu ái với tôi đang học lớp hai ngay bên cạnh… Thày lúc đó đã thật già cả, phải còng lưng ngồi trước cái cân sức khỏe trên đường phố để kiếm sống… Tôi lúc đó nghẹn ngào, không dám chào thày, sợ thày mủi lòng… Tôi không thể còn biết làm gì nữa… Mà những năm tháng đó, chính trong túi tôi cũng không có mấy đồng xu…
Một ngày lễ thịnh soạn trong một năm để tôn vinh các nhà giáo không thể thay thế được 364 ngày thường còn lại trên đường đời, chưa kể một khi nhà giáo đã già cả, còm cõi, và đồng lương hưu trí còn còm cõi hơn. Chúng ta hãy thay đổi cách nghĩ, cách sống, hãy chân thật, giản dị, không thỏa hiệp với những thứ lễ lạt tự dối mình đằng đẵng làm gì nữa.
Hãy giản dị, chân thật như cây hoa xương rồng bé xíu xinh xắn mà cô Marie đã tặng nhân Giao Thừa Tết năm nao.