Đổi mới giáo dục và người lãnh đạo: Phần 2: Xu hướng học tập và vai trò hiệu trưởng
5. Các xu hướng học tập John Bransford, trong tác phẩm Cách người ta học, nhận diện ra 3 vấn đề chủ chốt trong cách thức mọi người học tập, nhất là các học sinh nhỏ. 1. Người học tới lớp học với định kiến về cách thế giới vận hành. Nếu ở lớp mà giáo viên không tính tới hiểu biết ban đầu đó thì học sinh có thể không nắm được khái niệm và thông tin mới được dạy, hay học sinh có thể học chỉ để cho qua kì kiểm tra nhưng vẫn giữ lại định kiến cũ bên ngoài lớp học.
a) có nền tảng sâu sắc về tri thức sự kiện,
b) hiểu biết các sự kiện và ý tưởng trong hoàn cảnh của khuôn khổ khái niệm,
c) tổ chức tri thức theo cách làm thuận tiện cho việc truy lục và áp dụng.
3. Cách tiếp cận siêu nhận thức tới việc học có thể giúp cho người học nắm quyền điều khiển việc học riêng của mình bằng cách xác định mục đích học tập và điều phối tiến bộ để đạt tới mục đích này.
Hệ quả của ba phát hiện này về việc dạy là gì? Thứ nhất, giáo viên phải tiến hành giảng dạy dựa trên hiểu biết đầy đủ về vốn tri thức hiện có của người học. Điều này đòi hỏi phải thường xuyên có sự đánh giá chính xác về việc học của học sinh, cũng là điều phù hợp hoàn toàn với các nguyên tắc đánh giá của chương trình đào tạo. Những đánh giá chính thức thường xuyên cung cấp những phản hồi giúp cho người học sửa đổi và hiệu chỉnh cách nghĩ của mình.
Hệ quả thứ hai đối với việc dạy là ở chỗ giáo viên cần phải dạy các chủ đề theo chiều sâu, cung cấp nhiều ví dụ về khái niệm trong vận hành. Chúng ta để ý thấy điều này trong các chương trình đào tạo khi có nhiều chủ điểm được tái xuất hiện qua nhiều năm. Cần phải đảm bảo rằng chúng ta sử dụng sự lặp lại này để xây dựng hiểu biết sâu sắc hơn về các khái niệm chủ chốt. Điều này cũng có nghĩa là giáo viên phải là chuyên gia về lĩnh vực chủ đề. Tri thức chủ đề là hòn đá tảng cho việc dạy hiệu quả. Việc đánh giá nên kiểm tra sự hiểu sâu hơn.
Hệ quả thứ ba cho việc dạy là ở chỗ cần phát triển việc dạy về những kĩ năng siêu nhận thức, đưa yếu tố cách học tập tích hợp vào trong chương trình ở nhiều lĩnh vực tri thức. Siêu nhận thức thường là đối thoại bên trong về cách thức học tập , nhưng giáo viên phải mô hình hóa việc tư duy này. Đây là điều cần làm khi nói rằng chúng ta cần phát triển khả năng cho người học tự tìm hiểu cách học tập của mình.
Tuy nhiên thực tế một số môn học hiện nay không đi sát được ba xu hướng này. Xem xét một số thực tế môn học cụ thể sẽ cho thấy rõ hơn những bất cập hiện nay.
6. Thực tế một số môn học
6.1 Môn lịch sử
TS Sam Wineburg, giáo sư lịch sử Đại học Stanford nêu ra một nhận xét được đa số mọi người thừa nhận, “môn lịch sử gây chán cho học sinh với việc giáo viên chỉ giới thiệu các tên người và địa danh cùng ngày tháng”. Peter Lee, giáo sư lịch sử tại Đại học London có ý kiến, “mọi người có định kiến rằng lịch sử chỉ gồm các tên tuổi và ngày tháng”. Rosalyn Ashby, giáo sư lịch sử, Đại học London nhấn mạnh, “mọi người chóng quên đi sự kiện, họ không mang theo hiểu biết, họ đã không học cách đặt mối liên hệ các sự kiện với nhau, không hiểu trạng thái các sự kiện và các trạng thái khác biệt khi chúng được đặt vào các mối quan hệ khác nhau.” Vì vậy người ta thường hiểu một cách đơn giản
Lịch sử = Tên & Ngày tháng
Ngày nay đã xuất hiện những quan điểm khác về học lịch sử. Học lịch sử là học về các luận cứ được suy diễn và học các tài liệu lịch sử chứ không phải là học chỉ về các sự kiện lịch sử. Như vậy cái hiểu trong việc học lịch sử phải được nâng lên mức khái niệm cấp hai: hiểu về bằng chứng, nguyên nhân, và những điều gây ra thay đổi, không chỉ là những dấu ấn cụ thể theo thời gian và sự việc. Việc học lịch sử cần được chuyển sang một kiểu mới. Cần bắc cầu qua những quan niệm ngây thơ của học sinh về các khái niệm lịch sử để cho học sinh có thể tham gia đầy đủ hơn vào quá trình suy diễn lịch sử.
Giáo sư Peter Lee nói: “Định kiến ảnh hưởng tới cách diễn giải các biến cố lịch sử. Học sinh mang định kiến gì khi chúng ta giảng giải cặn kẽ về các biến cố lịch sử? Nếu lịch sử được dạy theo định kiến về cách con người nên hành xử trong những hoàn cảnh đặc biệt thì chúng ta bị mắc vấn đề”.
Trong quan hệ với hoàn cảnh xã hội và chính trị lớn, cách diễn giải của học sinh dựa vào kinh nghiệm cá nhân. Vì vậy việc giảng dạy lịch sử cần cho học sinh thấy được hoàn cảnh lịch sử và các xu hướng tạo ra những cách nghĩ và cách hành động của thời đại đó, chứ không dựa vào những diễn giải cá nhân.
6.2 Môn khoa học
TS Jim Minstrell nhận xét về việc dạy môn khoa học, “Thách thức mà giáo viên phải đối diện khi họ chấp nhận cách dạy dựa trên truy tìm là phải thường xuyên đề cập tới quan niệm và quan niệm sai của học sinh ngay trong soạn giáo trình và việc dạy của mình.” Việc dạy các môn khoa học không chỉ đơn thuần là đưa ra những tổng kết, những qui luật đã được khoa học đúc rút mà học sinh phải học thuộc. Cần phải làm sao qua việc dạy về khoa học, rèn luyện được cho học sinh thói quen và cách làm việc khách quan, khoa học. Muốn vậy giáo viên cũng phải là người tham gia vào quá trình sáng tạo tri thức, người khai triển và đưa ra các nhận xét về chính quá trình học tập khoa học của mình. Kinh nghiệm của Minstrell đã giúp ông ấy phát triển tri thức siêu nhận thức tích cực về bản thân mình như một người học và điều đó cũng là cần thiết cho mọi người học khác.
Việc dạy về khoa học không phải chỉ dạy về các nguyên lí và qui luật đã được đúc kết thành lời văn, công thức; cần phải dạy cho học sinh trở thành người tự học, tự truy tìm tri thức cả đời. Môn khoa học do vậy không chỉ dạy cho học sinh yếu tố khách quan, quan sát và phát hiện vấn đề mà còn phải dạy cho học sinh cách điều chỉnh lại quan niệm và đi theo những ý tưởng sáng tạo mới trước đây chưa có.
Có những cách tiếp cận hay để phát triển chương trình đào tạo hỗ trợ cho việc học với hiểu biết và động viên việc làm ra ý nghĩa. Một cách tiếp cận là “hình thức hóa dần,” bắt đầu từ những ý tưởng không hình thức mà học sinh đem tới trường và giúp đỡ dần cho các em thấy cách các ý tưởng đó có thể được biến đổi và hình thức hóa. Các giáo viên động viên học sinh xây dựng các ý tưởng không hình thức theo cách thức dần dần nhưng có cấu trúc để cho họ thu được khái niệm và thủ tục của một bộ môn.
6.3 Môn công nghệ
Đặc điểm của môn công nghệ là giáo viên thông thường không bắt kịp với công nghệ mới, do tiến bộ công nghệ thì nhanh, mà giáo viên lại được biết tới tiến bộ đó khá chậm, nhiều khi còn chậm hơn cả học sinh. Vậy phải làm sao giúp cho học sinh có học vấn về công nghệ mới?
Dạy kĩ năng công nghệ thách thức các giáo viên về vấn đề rất lớn là làm sao để học sinh có được sự quen thuộc thích ứng với nền công nghệ chứ không chỉ là kĩ năng dùng công cụ. Vậy thì dạy công nghệ có phải là dạy kĩ năng gõ máy, như sử dụng chương trình soạn thảo văn bản, tính toán trên bảng tính, làm website…? Chắc chắn các kĩ năng đó giúp ích rất nhiều cho học sinh học công nghệ, nhưng đó không phải là tất cả những gì công nghệ đòi hỏi mà còn cần dạy thêm nhiều điều khác nữa.
Học sinh cần được học cách tham gia vào công nghệ để làm ra sản phẩm. Việc học kĩ năng công nghệ như vậy cần có mục đích rõ ràng và tạo sự lí thú. Rõ ràng học trong hoàn cảnh học sinh tạo ra cái gì đó sẽ gây hứng thú với họ và có tiềm năng có giá trị cho người khác.
Sự khác biệt chính trong dạy công nghệ so với dạy các môn khác là dạy cách thực hiện một công việc “tại chỗ”, làm ra sản phẩm với nhiệm vụ xác định, có sử dụng công nghệ và phối hợp nhiều người.
7. Tiến hành thay đổi trong hệ thống giáo dục
7.1 Vai trò của hiệu trưởng
Sự thay đổi trong yêu cầu của xã hội đối với giáo dục đòi hỏi việc chuyển biến cả về nhận thức của con người và tổ chức đối với giáo dục. Việc đổi mới giáo dục là nhu cầu tất yếu của mọi nước trên thế giới và vai trò lãnh đạo sự thay đổi này trong các nhà trường thuộc về các hiệu trưởng cũng như các cấp lãnh đạo giáo dục. Đổi mới thành công đòi hỏi tất cả những người tham gia trong hệ thống giáo dục sẵn lòng và có khả năng phối hợp các nỗ lực. Tuy nhiên trong nhà trường, hiệu trưởng chính là người đứng ra tổ chức đưa những thay đổi vào trường học một cách có kế hoạch và bài bản.
Hiệu trưởng phải là người tạo ra hành lang thích ứng tối ưu cho sự thay đổi. Hiệu trưởng nhà trường cần phát huy quyền lãnh đạo của mình thế nào trong quá trình đưa những yếu tố mới vào công việc giảng dạy? TS Michael Fullan quan niệm cần xét tới 2 khía cạnh của đổi mới: Đổi mới bao gồm thực hiện “điều” mọi người cùng muốn thay đổi và chiến lược đổi mới sẽ ảnh hưởng tới bản thân quá trình đổi mới.
Điều này có nghĩa là trước hết toàn bộ các giáo viên trong nhà trường cần phải được thống nhất về quan niệm đổi mới giáo dục và cùng đồng lòng tiến hành công việc đổi mới. Trước khi tiến hành những thay đổi về tổ chức và phương pháp làm việc, mọi người cần được thông tin, trao đổi và bàn bạc để nhận thức rõ vấn đề mà toàn trường cần đạt tới. Sự thay đổi cần trở thành mong muốn của mọi người trong trường.
Những sự thay đổi chính bao giờ cũng bắt nguồn từ từng con người, từ việc bản thân họ thay đổi cách thức làm việc cũ để đưa yếu tố mới vào. Sự thay đổi cục bộ đó được phối hợp nhịp nhàng trong cả trường, trong tổ chức sẽ làm biến chuyển tác phong cũng như lề lối làm việc của cả trường. Và khi mà nhiều trường cùng đưa vào những cách giảng dạy, giáo dục mới phù hợp với yêu cầu của thời đại thì sẽ tạo ra phong trào thay đổi căn bản trong nền giáo dục.
Trên cơ sở đó hiệu trưởng cần xây dựng kế hoạch thay đổi, đổi mới dần các khía cạnh giáo dục cho sát hợp với thực tế và với các yêu cầu của các cấp lãnh đạo giáo dục. Chiến lược thực hiện đổi mới của hiệu trưởng do vậy sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới chính quá trình đổi mới và quyết định sự thành công hay thất bại của công việc này.
Đổi mới là chuyển sang cách thức làm việc mới. Thay đổi những thói quen đã quen thuộc ban đầu thường dẫn tới sụt giảm tạm thời về hiệu năng và có thể có sự hỗn loạn trong tổ chức. Điều đó là không tốt cho ngắn hạn nhưng lại hữu ích cho phát triển lâu dài.
7.2 Thay đổi trong hoàn cảnh Việt Nam
Đã từ lâu có xu hướng ngày càng tăng việc hành chính hoá các cơ quan tổ chức của nhà nước ở Việt Nam và trường học không phải là ngoại lệ. Nhưng hiệu trưởng trong nhà trường thực sự không phải là quan chức hành chính chỉ làm theo các mệnh lệnh từ trên đưa xuống. Hiệu trưởng phải là người lãnh đạo sáng tạo và năng động, biết nhìn nhận tình huống xã hội xung quanh trường để đưa ra những quyết định chính xác thúc đẩy việc đào tạo của nhà trường đáp ứng yêu cầu thực tế.
Hoàn cảnh chung của xã hội và của nhà trường đang có những thay đổi lớn khi mà công nghệ đi dần vào cuộc sống và trở thành công cụ chính cho mọi người trao đổi và làm việc. Tuy nhiên môi trường pháp lí cho hoạt động giáo dục và công nghệ thì chuyển biến chậm hơn các tiến triển thực tế. Do đó hiệu trưởng cần thấy rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động giảng dạy và công nghệ. Sự năng động của nhà trường sẽ giúp các cấp lãnh đạo quản lí giáo dục nhanh chóng hơn trong việc tạo hành lang pháp lí chính thức cho những vấn đề mới. Đòi hỏi của xã hội đặt ra các mục tiêu mới mà hiệu trưởng cần nhận biết và làm cho nhà trường đáp ứng được.
Để tạo được nền tảng công nghệ trong nhà trường, cần có đầu tư tối thiểu vào việc trang bị máy móc và huấn luyện người sử dụng. Nếu chờ đợi vào những đầu tư của nhà nước thì việc tiến lên tầm mức giáo dục mới trên nền công nghệ sẽ rất chậm chạp và không đáp ứng được yêu cầu của xã hội hiện tại. Vì vậy hiệu trưởng cần nhạy bén và linh hoạt trong việc huy động nhiều nguồn tài lực khác để xây dựng nền tảng công nghệ trong nhà trường. Không chờ đợi và ỷ lại cấp trên chính là xuất phát điểm để hiệu trưởng đi vào việc tổ chức các hoạt động giảng dạy mới. Sự hỗ trợ về tri thức công nghệ từ các công ty công nghệ thông tin là giúp đỡ rất quí báu mà các hiệu trưởng cần cố gắng tận dụng tối đa để làm cho đội ngũ giáo viên có sự phát triển mạnh về tri thức công nghệ mới. Sự hỗ trợ còn tới từ các trường khác và những thông tin được phổ biến trên mạng, đó là những nguồn tri thức mới bổ sung cho sự sáng tạo tri thức tại chính nhà trường.
Đầu tư vào phần cứng máy móc chỉ có hiệu quả chừng nào nó đi song song với việc trang bị đầy đủ tri thức sử dụng máy móc cho các giáo viên. Và hơn thế nữa, các giáo viên cần phải biết tận dụng sáng tạo công cụ mới vào việc giảng dạy của mình. Do vậy vai trò của hiệu trưởng trở thành rất quan trọng trong việc lập kế hoạch chiến lược để sử dụng các nguồn lực huy động được, hình thành ra môi trường làm việc mới cho giáo viên và học sinh trên nền công nghệ. Môi trường này là rất thiết yếu vì nó cho phép chuyển tải tri thức mới cho các giáo viên và học sinh, và do đó thiết lập ra những vấn đề giáo dục đào tạo mới.
Trên cơ sở có kế hoạch chiến lược thiết lập nền công nghệ và môi trường giảng dạy mới, hiệu trưởng còn là người trung tâm tổ chức và động viên các giáo viên trong trường hăng hái cải tiến và đưa những phương pháp giảng dạy mới có dùng công nghệ vào thực tế. Điều này sẽ trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đưa giáo dục đi sát với yêu cầu của thời đại.
Với việc quản lí chặt chẽ các tiến bộ công nghệ trong giáo dục, hiệu trưởng thực tế là người tổng chỉ huy cho những phát triển mới của giáo dục trong phạm vi trường của mình. Những tiến bộ mới bao giờ cũng bắt nguồn từ các hoạt động thực tế phong phú của những giáo viên và hiệu trưởng năng động nhất. Sự tổng kết và nhân rộng các điển hình thành công của công nghệ hỗ trợ cho giáo dục sẽ làm thúc đẩy giáo dục có những bước phát triển mới trong thời đại ngày nay.
7.3 Thay đổi môi trường học tập
Jane Mercer, nhà nghiên cứu xã hội học cổ điển cho rằng: môi trường trường học điển hình thường làm cho chúng ta đánh giá thấp khả năng của học sinh. Môi trường học tập cổ điển thường được quan niệm như một băng chuyền nạp tri thức và kĩ năng vào cho học sinh: từ mẫu giáo – phổ thông 12 năm – đại học. Và nhà trường phổ thông hoàn thành trách nhiệm khi cho ra lò các thế hệ học sinh trung học với những hiểu biết và tri thức được ấn định sẵn.
Môi trường học tập mới hiện nay đã phát sinh và vượt ra ngoài khuôn khổ giáo dục truyền thống của các nhà trường phổ thông và đại học. Môi trường học tập mới nảy sinh theo các chủ đề mới trong kinh tế và xã hội và yêu cầu con người phải thường xuyên học tập để theo sát tiến bộ mới. Như vậy việc học tập của mọi người nay không dừng lại sau băng chuyền học tập từ mẫu giáo-phổ thông-đại học mà tiếp tục không ngừng trong cả đời người để theo sát tiến bộ công nghệ.
Môi trường học tập mới đòi hỏi con người phải có kĩ năng tự học, tự tìm kiếm tri thức trên mạng tri thức toàn cầu, qua Internet, qua truyền hình… Việc tự trang bị tri thức mới cho mình để đáp ứng với các yêu cầu luôn biến động của thực tế trở thành đòi hỏi của xã hội hiện nay. Giáo dục ở các bậc phổ thông và đại học nay còn phải trang bị thêm cho học sinh khả năng tự học tập cả đời như vậy, bên cạnh những tri thức cốt yếu và đã được tích luỹ.
7.4 Liên kết các viễn cảnh của môi trường học tập
Bốn viễn cảnh chính về môi trường học tập, đặt trọng tâm vào người học, trọng tâm vào tri thức, trọng tâm vào đánh giá và trọng tâm vào cộng đồng, thực tế là sự bổ trợ lẫn cho nhau để tạo ra hoàn cảnh học tập thuận lợi nhất cho người học. Việc liên kết các viễn cảnh này là quan trọng cho các trường cũng như cho các tổ chức nói chung. Ý tưởng chính ở đây là liên kết các mục đích học tập với điều được dạy, cách dạy nó, và cách đánh giá nó. Thiếu sự liên kết này thì khó mà biết được điều gì đã được học. Học sinh có thể học thông tin có giá trị, nhưng người ta chẳng thể biết được chừng nào chưa có liên kết giữa điều họ học và các đánh giá về việc học đó. Tương tự, học sinh có thể học những điều mà người khác cho là vô giá trị chừng nào chương trình đào tạo và việc đánh giá còn chưa được liên kết với mục tiêu học tập nghĩa rộng của cộng đồng.
Cách tiếp cận hệ thống để thúc đẩy sự phối hợp giữa các hoạt động là cần thiết để thiết kế ra môi trường học tập hiệu quả từ trong lớp tới nhà trường. Các hoạt động bên trong lớp học có thể được liên kết nhưng phải khớp với hoạt động của nhà trường. Và nhà trường như một toàn thể cần có sự liên kết nhất quán các lớp học. Điều này có nghĩa là các đổi mới và canh tân giáo dục được đưa vào trong nhà trường phải được tiến hành đồng bộ. Một số trường thiết lập chính sách nhất quán về các chuẩn và những mong đợi để tiến hành công việc và đạt tới kết quả. Khi hiệu trưởng và các giáo viên cùng làm việc để xác định tầm nhìn chung cho toàn thể trường học, thì việc học có thể được cải thiện rất nhiều.
Các hoạt động bên trong nhà trường cũng phải được liên kết với các mục đích và thực hành đánh giá của cộng đồng. Lý tưởng nhất là mục đích của giáo viên về học tập phải khớp với chương trình họ dạy và mục đích của trường đến lượt nó lại khớp với mục đích trong các kì thi vẫn có trong hệ thống nhà trường. Những nhân tố này không được liên kết với nhau sẽ gây ra trục trặc. Sự thay đổi hiệu quả đòi hỏi xem xét đồng thời tới tất cả các nhân tố này.
Xem tiếp kỳ sau: Phần 3: Những việc cần triển khai