Lịch sử là thực tế tiền công nghiệp
Bài trả lời phỏng vấn sau đây của giáo sư sử học Barbara Hahn, một học giả lịch sử kinh tế tại Viện đại học Texas Tech, phó tổng biên tập tạp chí Technology and Culture thuộc Hiệp hội Lịch sử Công Nghệ Hoa Kỳ, mang đến cho độc giả những góc nhìn khoa học về nghiên cứu, giảng dạy, và học sử của Mỹ.
Phương pháp nghiên cứu đóng một vai trò quan trọng trong việc khám phá câu chuyện lịch sử. Vậy làm thế nào để chúng ta tạo ra một môi trường nghiên cứu tự do mà không làm mất đi tính nguyên tắc của nó?
Dạy sinh viên cách làm nghiên cứu trong khi cho phép họ tìm thấy cách nghiên cứu riêng và cách viết riêng của họ là một điều cần phải được thực hiện. Nó không phải như là giáo sư viết ra hướng dẫn và sinh viên cứ theo những hướng dẫn đó mà học để trở thành một sử gia. Sự tương tác giữa những người có kinh nghiệm đào tạo với những người đang tìm kiếm kinh nghiệm và sự đào tạo là rất quan trọng cho quá trình học tập. Bằng cách này, lịch sử thực sự là một thực tế tiền công nghiệp. Nó có nghĩa là không phải một điều gì đó có thể được sản xuất từ xưởng máy cũng thậm chí không tuân theo những chuẩn mực mang tính trật tự trong cùng một thời gian bất kể ai làm công việc đó.Thay vì vậy, nó là một quá trình rất cá nhân và mỗi người phải tìm ra phương tiện để nghiên cứu từng vấn đề và trình bày kết quả nghiên cứu.
Cách tốt nhất để giúp sinh viên tiếp cận và quan tâm đến phương pháp lịch sử là gì?
Tôi nghĩ các ví dụ sẽ luôn giúp sinh viên hiểu tốt hơn. Trong lớp học về các phương pháp lịch sử, tôi cố gắng cung cấp một bài tập thực hành cho mỗi phương pháp đang được xem xét. Điều này giúp sinh viên thực hành phương pháp đó. Trong khi thảo luận, sinh viên học cả hai: giá trị của phương pháp đó và những mối nguy hiểm của nó – Những gì mà một loại tư liệu cụ thể cung cấp cho các nhà sử học, và nó yếu hoặc không đáng tin cậy ở những điểm nào.
Nhiều sinh viên không thích học lịch sử vì họ cảm thấy kinh nghiệm cá nhân của họ không được phản ánh trong các câu chuyện lịch sử họ được dạy . Giáo sư có thể đề nghị một số triết lý sư phạm có thể làm cho sinh viên thích thú hơn với lịch sử ?
Lịch sử thực sự là một thực tế tiền công nghiệp. Nó có nghĩa là không phải một điều gì đó có thể được sản xuất từ xưởng máy cũng thậm chí không tuân theo những chuẩn mực mang tính trật tự trong cùng một thời gian bất kể ai làm công việc đó.Thay vì vậy, nó là một quá trình rất cá nhân và mỗi người phải tìm ra phương tiện để nghiên cứu từng vấn đề và trình bày kết quả nghiên cứu. |
Một số sinh viên hứng thú với lịch sử chỉ vì nó cung cấp một cái nhìn phức tạp và mang sắc thái của thế giới ngày nay, và làm thế nào chúng ta phát triển đến thời điểm hiện tại, cũng như một cái nhìn tương tự về các mối quan hệ nhân – quả trong quá khứ. Tôi cũng nghĩ rằng khi con người có tuổi, họ bắt đầu nhận ra rằng lịch sử phản ánh những kinh nghiệm của họ, hay là nó rọi một tia sáng lên những sự kiện mà con người nghĩ rằng họ đã hiểu và học được từ lịch sử rằng nguyên nhân của những khoảnh khắc họ đã sống, trải qua là thực sự sâu sắc hơn những gì họ đã biết vào thời điểm đó.
Trong việc giảng dạy và phương pháp học tập lịch sử ở Mỹ? Giảng viên và giáo trình ở Mỹ độc lập thế nào với các giả định tư bản chủ nghĩa ?
Thị trường tư bản chủ nghĩa vốn đã phân cấp, vì vậy ngay cả những ý tưởng cũng hình thành trong một thị trường cạnh tranh. Tuy nhiên, đôi khi điều đó có nghĩa là các sự kiện cũng tùy thuộc vào “những cuộc tranh luận đại chúng”. Ví dụ, giải thích sai về các nguyên nhân của cuộc nội chiến Mỹ là một trong những yếu tố chính trong ý thức hệ bảo thủ hiện đại hay tư tưởng chính trị của “Tea Party”. Những người tin rằng chính phủ là to lớn và xấu xa cũng tin rằng tổ tiên của họ đã chiến đấu chống lại chính phủ liên bang thay mặt cho các tiểu bang riêng biệt và quyền của các tiểu bang để thiết lập luật pháp và các chính sách riêng của họ. Họ tin vào điều này một cách thấu suốt hơn khi họ không suy nghĩ về quyền mà các tiểu bang của họ muốn bảo vệ, đó là giữ chế độ nô lệ. Vì vậy, một lịch sử của cuộc Nội chiến nhấn mạnh chế độ nô lệ sẽ được bán tốt hơn trong một thị trường miền Nam, và sẽ có thể rất khó khăn cho một giáo sư để thuyết phục các sinh viên về các sự kiện mà tất cả các nhà sử học biết là đúng, ngay cả khi cho họ tiếp cận các nguồn tư liệu gốc có sẵn và khẳng định rằng chế độ nô lệ chính là lý do mà các tiểu bang ly khai khỏi liên bang.
Ngày nay lịch sử được nghiên cứu dưới ánh sáng của những xu hướng mới, chẳng hạn như quan điểm liên văn hóa hoặc hậu hiện đại . Ý kiến của bà về những trường tư tưởng này ra sao? Có các trường nào khác cần được xem xét không?
Hậu hiện đại là một trạng thái, hơn là một ý kiến hay quan điểm. Con người không thể nào thoát khỏi nó hơn nữa như khi họ có thể thoát khỏi thời hiện đại trong những ngày hoàng kim của nó vào những năm đầu thế kỷ 20. Ta đều biết rằng chúng ta kể những câu chuyện khác nhau từ những vị trí, điểm nhìn khác nhau. Ví dụ cảnh sát , bạn bè, cha mẹ, thầy cô … mỗi người sẽ nhận được một mẩu chuyện khác nhau về một ngày ta sống chẳng hạn. Đây chính là một cái nhìn căn bản của tư duy hậu hiện đại. Tương tự, những quan điểm liên văn hóa xuất phát từ thực tế rằng chúng ta đang sống trong một xã hội với nhiều hơn một nền văn hóa, và rằng cả thế giới có muôn màu muôn vẻ những kinh nghiệm và văn hóa có ý nghĩa đến những thực thể tham gia nó, ngay cả khi những kinh nghiệm, văn hóa này là rất khó khăn cho những người đến từ xã hội khác hiểu được. Sự đồng cảm thúc đẩy các quan điểm liên văn hóa. Và tính tương đối trong thời kì hậu hiện đại cũng thế.
Thống kê, công nghệ thông tin, tư duy biện luận và các kỹ năng nghiên cứu khác của thế kỷ 21 tham gia bao nhiêu vào việc giảng dạy lịch sử ? Sinh viên sẽ được đáp ứng tốt hơn bằng cách học chúng trong chính ngành hay trong những lĩnh vực khác nữa?
Các phương pháp lịch sử đang thích nghi với những thay đổi công nghệ nhanh chóng và mang tính cách mạng mà chúng ta đang trải qua hiện nay. Nếu một giảng viên có những kỹ năng đặc biệt mới hoặc hiếm, cô ta nên dạy chúng cho sinh viên của mình. Mặt khác, các phương pháp thường thay đổi và phát triển rất nhanh chóng, nên việc nó chỉ được áp dụng trong một ngành đơn lẻ là không thể. Trong trường hợp sinh viên cần một kỹ năng nghiên cứu cụ thể mà không có giáo sư lịch sử nào trong phân ngành có thể dạy, sẽ là tốt để tìm kiếm những kĩ năng này trong các phân ngành hoặc thậm chí những lĩnh vực khác.
Về tỷ lệ, mức độ quan trọng thích hợp của các việc giảng dạy, nghiên cứu, công tác hành chính và phục vụ cộng đồng được phân chia thế nào?
Đại học Texas Tech nơi tôi giảng dạy, là một Viện nghiên cứu. Vì lý do đó, công việc của tôi là khoảng 40% giảng dạy, 30% nghiên cứu và 30 % dịch vụ, nhưng tỷ lệ có thể biến đổi rất lớn. Người làm việc trong tổ chức thiên về giảng dạy hơn dành ít thời gian của mình hơn cho việc nghiên cứu, và nhận được ít hơn phần thưởng từ nó. Ngay cả trong phân ngành Lịch sử tại trường Texas Tech cũng có nhiều biến thể. Nhiều đồng nghiệp của tôi làm dịch vụ cộng đồng địa phương trong khi dịch vụ của tôi thường là làm việc với các tổ chức chuyên nghiệp quốc tế. Chẳng hạn, tôi là Phó tổng biên tập của tạp chí Công nghệ và Văn hóa, đó là tạp chí của Hiệp hội Lịch sử Công nghệ, và tôi cũng tham gia trong Hội Đồng Quản Trị của Hội nghị Lịch sử kinh doanh.
Văn Cầm Hải thực hiện