Mô hình ĐH hoa tiêu (Kỳ cuối): Bối cảnh quốc gia và những biến số khác

Mô hình ĐH hoa tiêu nhằm mục đích đưa ra một cách tiếp cận khác trong nhận thức thay cho hình mẫu mơ hồ của Trường ĐH ĐCQT đang thống trị trong các cuộc thảo luận quốc tế, trong các hội thảo khoa học và các tập san. Tuy thế mục tiêu ở đây thậm chí còn tham vọng hơn: hỗ trợ cho một đặc điểm, một văn hóa tổ chức trong một nhóm trường được chọn lọc, tự xác định mục tiêu trở thành ĐH hoa tiêu hoặc được nhà nước giao nhiệm vụ.

Đó là những trường bắt rễ sâu từ đặc điểm của quốc gia hay khu vực và xem tính thiết yếu cho quốc gia hay khu vực là sứ mạng của mình, đồng thời được hỗ trợ bởi những hoạt động và cách xử sự nảy sinh từ nhu cầu nội tại trong việc giải trình trách nhiệm.

Những trường ĐH tốt nhất là những trường luôn phấn đấu để trở thành tốt hơn nữa, và không đơn giản chỉ là trong lĩnh vực nghiên cứu, một mối quan tâm chủ yếu của những sáng kiến chính trị hoa mỹ nhằm đạt cương vị ĐH ĐCQT trong các bảng xếp hạng. Nó là một trách nhiệm rộng lớn hơn nhiều bao gồm giảng dạy, phục vụ cộng đồng, và những cơ chế nội tại hỗ trợ cho chất lượng và sự ưu tú.

Cũng như trong cuộc thảo luận làm cách nào xây dựng một trường ĐH ĐCQT, có những biến tố môi trường hay bối cảnh quốc gia/ khu vực ảnh hưởng tới sự hình thành hay bền vững của một trường tuyên bố mình là ĐH hoa tiêu. Những biến tố đó có thể là: 

•    Lịch sử xây dựng hệ thống GDĐH – Các nước thường có lịch sử xây dựng hệ thống GDĐH rất khác nhau, và điều này có ảnh hưởng đến những nỗ lực cải cách. Như đã nêu trước đây, nếu truyền thống chính trị của quốc gia và những chính sách cụ thể liên quan tới mạng lưới ĐH ủng hộ cho lối cấp ngân sách cào bằng, thì những nỗ lực nhằm phân biệt về sứ mạng của những trường đang tồn tại, đôi khi những trường có tiếng nói mạnh mẽ về mặt chính trị, sẽ cản trở việc nhà nước chính thức giao cho trường nào đó làm ĐH hoa tiêu cùng với một nguồn lực đặc biệt. Tuy vậy những trường hàng đầu của khu vực hay của cả nước, với nhiều đặc điểm giống như các ĐH hoa tiêu, bao gồm nhiều ngành đào tạo đa dạng và một văn hóa chú trọng phục vụ cộng đồng, có thể tự xác định mình là một ĐH hoa tiêu, vận dụng cách diễn đạt này để giúp định hình văn hóa của nhà trường cũng như coi đó là bản chất của nhà trường để thảo luận với Bộ giáo dục và là hình ảnh nhà trường bộc lộ trước công chúng.

•    Biến tố nhân khẩu học và tăng trưởng kinh tế – Các nước có dân số đang tăng, thường cũng tăng nhanh về sự đa dạng, trong đó có các nhóm nhập cư, là những nước đặc biệt có nhu cầu về những trường được xem là ĐH hoa tiêu. Nhìn chung, tuy không phải bao giờ cũng thế, các trường ĐH vận hành trong một môi trường đòi hỏi về ngân sách và của sinh viên ngày càng tăng. Dân số giảm hay ổn định tạo ra môi trường khó khăn hơn cho ĐH hoa tiêu, nhưng có thể khiến họ tập trung nhấn mạnh vào một đặc điểm nào đó ví dụ như phục vụ cộng đồng, chuyển giao công nghệ và trực tiếp phục vụ  cho việc phát triển kinh tế ở địa phương. 

•    Phân biệt giới, chủng tộc và giai cấp – Một biến số liên quan tới nhân khẩu học là những chính sách và thực tiễn văn hóa phân biệt giới, chủng tộc và giai cấp. Mọi xã hội đều có ít nhiều tệ nạn phân biệt này; là thứ có thể loại ra hay chia tách một nhóm người nhất định không phải vì năng lực trí tuệ của họ mà vì những định kiến xã hội.  Một cực đoan trong phân biệt giới là loại trừ phụ nữ trong một số hay tất cả hình thức học ĐH. Những hình thức chia tách ấy, chính thức hay không chính thức, đã ngăn chặn bất cứ nước nào muốn đạt đến một trường ĐH hoa tiêu hay bất cứ tuyên bố nào về ĐH ĐCQT. 

•    Truyền thống dân chủ và một chính phủ ổn định – Những nước có truyền thống dân chủ mạnh mẽ và có một niềm tin phổ biến vào năng lực và sự cởi mở của chính phủ, cùng với nền kinh tế đa dạng và phát triển, nhìn chung sẽ mang lại cơ sở vững chắc cho một hệ thống GDĐH giàu sức sống cũng như cho mô hình ĐH hoa tiêu. Những quốc gia thất bại, hay những nước có cơ chế tập trung hóa cao độ, hay là bị chính trị kiểm soát quá chặt chẽ thì sẽ tạo ra nhiều hạn chế đáng kể khiến các trường khó lòng gắn bó đầy đủ với lý tưởng của một ĐH hoa tiêu, hoặc khó lòng được công nhận cương vị ĐH ĐCQT.  Đồng thời, một số nước với truyền thống dân chủ mạnh mẽ cũng có thể có các cơ quan quản lý giáo dục nhà nước liên tục theo đuổi những thay đổi trong cơ chế giải trình trách nhiệm và cấp tài trợ, khiến môi trường chính sách thành ra không ổn định đòi hỏi các trường phải điều chỉnh nhiều lần cho thích hợp với những đìi hỏi từ bên ngoài. Điều này trái ngược với đặc tính quan trọng của ĐH hoa tiêu là nhấn mạnh cơ chế bảo đảm chất lượng nội bộ và chiến lược của nhà trường để trở thành thiết yếu cho khu vực và cho quốc gia.

•    Hệ thống tuyển sinh có chất lượng – Đường vào ĐH, trong đó có chất lượng của giáo dục trung học dành cho dân chúng cả nước, là một yếu tố chính làm cột trụ cho một trong những mục tiêu của trường ĐH hoa tiêu: công bằng trong cơ hội vào ĐH, nhằm phục vụ cho con đường chuyển dịch kinh tế xã hội lành mạnh. Hầu hết các trường ĐH hiện nay, kể cả những trường có thứ hạng cao hay tự xem mình là trường đỉnh, đều làm ngơ không lý gì tới tiềm năng của họ có thể giúp định hình và tác động đến chất lượng của các trường phổ thông.  Như đã nêu vắn tắt trong mô hình ĐH hoa tiêu, có nhiều hoạt động mà các trường ĐH có thể can dự vào để hỗ trợ hệ thống giáo dục phổ thông, như cải thiện chương trình đào tạo, mang lại trải nghiệm có tính hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, v.v.

•    Một xã hội cởi mở  – Những nước đang gánh chịu các hình thức phân biệt cực đoan, những nước không có khả năng bảo đảm tự do diễn đạt một cách đáng kể hay tiêu chuẩn về tự do học thuật không được hiểu biết rộng rãi, là những nước đang tự loại trừ họ ra ngoài việc có được những trường ĐH thực sự vĩ đại, trong đó có mô hình ĐH hoa tiêu. Giới hàn lâm và giới lãnh đạo hiểu rất rõ điều này và đã có nhiều nỗ lực để cải thiện tình trạng ấy trong những nước có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước về thông tin và về mọi hình thức chống đối.xxxviii

•    Thu hút và giữ chân người tài – Có một sự thật vô cùng đơn giản: chất lượng và thành quả của một trường ĐH, dù là ĐH hoa tiêu hay bất kỳ ĐH nào khác, được quyết định bởi chất lượng và đạo đức của đội ngũ giảng viên trường ấy. Điều này dẫn đến một dấu hiệu nhận diện khác của ĐH hoa tiêu, là chất lượng hàng đầu của sinh viên sau ĐH, những người đang làm việc ngày càng nhiều trong không gian toàn cầu. Nhưng có nhiều biến tố khác khiến cho việc tuyển dụng và giữ chân người tài trở nên khó khăn. Có phần vì trong những nền kinh tế đang phát triển, nhìn chung đang thiếu cả những chương trình đào tạo tiến sĩ lẫn cả giảng viên và nghiên cứu sinh. Giảng viên có đủ uy tín và phẩm chất để đào tạo bậc tiến sĩ thì thường được đào tạo từ nước ngoài và có nhiều cơ hội để làm việc trong khu vực doanh nghiệp. Khó mà giữ chân họ khi những công việc ở các nước phát triển được trả tiền cao hơn nhiều dĩ nhiên là có sức hấp dẫn hơn.

Một loạt công trình nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Chuyển đổi GDĐH đã nêu ra vắn tắt những khó khăn về mặt năng lực của các trường ĐH tiểu vùng Sahara Châu Phi, do thiếu giảng viên có bằng tiến sĩ, thiếu hụt nguồn cung để đáp ứng cho nhu cầu về giảng viên  ngày càng tăng, cùng với nó là thiếu nguồn tài chính và thời gian cho giảng viên làm nghiên cứu.xxxix 

Hiện tượng chuyển dịch tài năng trên phạm vi toàn cầu, dù là giảng viên, nhân viên, hay sinh viên, vừa là một lợi ích vừa là một thách thức.  Các trường ĐH có thể dùng những chiến lược gì để tạo ra một tập thể đủ lớn các nhà khoa học từ cỡ giỏi đến cỡ hàng đầu, và giữ chân họ? Câu trả lời khác nhau rất nhiều và chịu tác động bởi nhiều vấn đề: chất lượng sống, tiền lương, khối lượng giảng dạy, nhận thức về mục đích và sinh khí của bản thân nhà trường. Mô hình hoa tiêu nhấn mạnh vào giá trị của nhà trường, những mong đợi của giảng viên và vai trò thích hợp của họ trong việc lãnh đạo và quản lý nhà trường. Tuy nhiên, chính phủ không ổn định, chính sách bên ngoài thay đổi liên tục, tệ nạn phân biệt (chủng tộc, giới tính, giai cấp), hay tình trạng thiếu hụt tự do học thuật, là những yếu tố làm cho việc xây dựng và duy trì một đội ngũ giảng viên và nhân viên tài năng thêm phần khó khăn. 

•    Năng lực lãnh đạo và quản lý nhà trường  – Mô hình hoa tiêu nhấn mạnh nhiều đến yếu tố vận hành của nhà trường, trong đó có mức độ tự chủ, vai trò của giảng viên trong việc quản lý hoạt động khoa học và đào tạo, kỳ vọng đặt ra cho giảng viên và quy trình phát triển đề bạt, những chính sách về tự do học thuật.v.v. Tuy thế, vẫn có những nhân tố khác liên quan đến năng lực lãnh đạo và quản lý, ví dụ như phẩm chất của người lãnh đạo, sự kính trọng mà giảng viên dành cho họ, năng lực của họ trong việc tạo ra một quy trình tư vấn và tạo sự đồng thuận với những đề xướng chính sách chủ yếu, cũng như với việc sử dụng ngân sách. Những trường phải thường xuyên đáp ứng với các chỉ thị hướng dẫn ở cấp Bộ, về việc ngân sách phải tiêu vào việc gì và như thế nào, hay nói cách khác, có mô hình tổ chức tập trung cao độ, trong đó các trường và các khoa dường như được miễn trừ khỏi những sáng kiến cải cách và phân bổ ngân sách, là những trường đã tự làm giảm năng lực của mình trong việc trở nên trưởng thành và mở rộng vai trò của mình đối với xã hội.  

Ngoài những biến tố bối cảnh tác động đến điều kiện hình thành những trường chất lượng hàng đầu như đã nêu trên, người ta cũng nhận thức được những khó khăn đầy dẫy trong mô hình hoa tiêu. Phải thú nhận rằng, đây là một nỗ lực thăm dò  duy nhất để đem lại ý nghĩa cho ý tưởng về một trường ĐH hoa tiêu, phần nào bị trở ngại là vì mô hình này chưa bao giờ được định nghĩa đầy đủ ngay cả trong bối cảnh Hoa Kỳ. Để khám phá ý nghĩa của mô hình ĐH hoa tiêu, cũng như thử nghiệm chỗ mạnh yếu của nó, sau đây  là những câu hỏi và một phần câu trả lời về mô hình ĐH hoa tiêu và khả năng áp dụng của nó:

•    Mô hình này thiết yếu cho các nền kinh tế phát triển hay cho những nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi? – Mô hình hoa tiêu mà chúng tôi trình bày ở đây có ý nghĩa thiết yếu cho cả những nước đã phát triển (như Tây Ban Nha hay Hy Lạp) và các nền kinh tế đang phát triển, nhưng nhiều khả năng là có tác động nhất đối với những nước vẫn còn trong quá trình mở rộng và định hình hệ thống GDĐH. Các nền kinh tế phát triển thường có một hệ thống pha trộn nhiều loại trường hiện đang tồn tại, đôi khi như ở Đức và Pháp, một mạng lưới các trường/viện ĐH nghiên cứu với năng suất rất cao như Max Planck Institutes và CNRS/Grands Etablissements hoạt động chủ yếu tách biệt với khu vực ĐH công. Điều này có nghĩa là vai trò dẫn đầu của các trường này trong hệ thống giáo dục quốc gia là rất hạn chế, và về mặt chính trị rất khó đạt được. Tuy thế nét nổi bật trong ý nghĩa thiết yếu với quốc gia và khu vực, sự đa dạng trong các lĩnh vực chuyên ngành, các chính sách và hoạt động chủ yếu như đã nêu ra trên đây, vẫn có thể áp dụng với những điều chỉnh cần thiết với môi trường chính trị địa phương và nguồn tài trợ.

Những nền kinh tế đang phát triển có một khoảng không gian rộng lớn hơn cho vai trò lãnh đạo của trường ĐH hoa tiêu, trong đó nó là một bộ phận của một hệ thống lớn hơn và tìm cách ảnh hưởng lên hệ thống ấy qua việc giúp nó định dạng và phát triển. Nói chung có nhiều cơ hội hơn để mở ra các chương trình đào tạo và cùng làm việc với các doanh nghiệp, các tổ chức nhà nước trong cộng đồng địa phương.

Nhưng cũng có vô vàn khó khăn về mặt tài chính, và, chẳng hạn như ở Châu Phi, khó khăn trong đào tạo, thu hút và giữ chân những giảng viên tài năng. Lương thấp so với chi phí sinh hoạt khiến giảng viên phải tìm cách làm thêm– thường là giảng dạy ở trường khác. Thiếu một cơ chế đồng quản trị, hay đơn giản chỉ là lãnh đạo thiếu kinh nghiệm hay thiếu khả năng, nhiều khi khiến những giảng viên có tài tìm nguồn tài trợ và thực hiện những nghiên cứu của họ với những tổ chức hay viện nghiên cứu bên ngoài nhà trường.

Một biến tố khác liên quan tới bối cảnh quốc gia: một số nền văn hóa duy trì sự tồn tại của mình phần nào qua những hình thức tham nhũng khác nhau cũng sẽ đặt ra khó khăn trầm trọng cho các trường, ngay cả trong số những trường được xếp hạng cao nhất nước, để có thể trưởng thành như một hình mẫu của ĐH hoa tiêu. Một số vùng trên thế giới có những luật lệ phong tục khắc nghiệt hạn chế khả năng phụ nữ có thể can dự vào giáo dục bậc cao hay tham gia vào thị trường lao động ngang bằng như nam giới. Một số nước có những chính sách và thực tế hạn chế tự do học thuật. Tất cả những biến tố đó khiến cho lý tưởng của ĐH hoa tiêu gần như không thể nào đạt được.

Các trường có tham vọng với mô hình hoa tiêu trong các nền kinh tế đang phát triển hay đang chuyển đổi, cũng đương đầu với vấn đề cung cầu về sinh viên tốt nghiệp, và về việc tạo ra những sinh viên tài năng, những người sẽ tìm cơ hội phát triển ở những nước tiên tiến  – nguy cơ “chảy máu chất xám” vẫn còn là một quan ngại chính sách nghiêm trọng. Chúng tôi vẫn đang thấy một phong trào di chuyển nổi bật của giới hàn lâm từ phía nam tiến về phía bắc. Chúng ta mong muốn là hiện tượng chảy máu chất xám rút cục sẽ được thay thế bằng khái niệm “lưu thông chất xám” khi những người tài, giảng viên, nhân viên, sinh viên, giới doanh nghiệp,–ngày càng di chuyển nhiều hơn giữa các nước, các khu vực kinh tế. Chúng ta đã thấy mô hình này trong những nền kinh tế phát triển bậc nhất, và cả ở những vùng ít phát triển hơn, như một số nơi ở châu Âu. Nhiều nước có nền kinh tế đang phát triển đã xây dựng những chương trình thu hút giới học thuật tài năng, hầu hết là các nhà khoa học và kỹ sư, và những người bản xứ nay đã là công dân ở các nước phát triển, về làm việc trong các trường đỉnh của mình. Mô hình hoa tiêu, với đặc điểm của nó, có thể hỗ trợ cho những nỗ lực này, mang lại những giá trị làm cho những trường này trở nên hấp dẫn hơn.   

Đồng thời, nhiều nước cũng đang gặp khó khăn trong việc đem lại cơ hội việc làm cho sinh viên tốt nghiệp, như ở Trung Quốc, Tây ban Nha, và ngay cả ở Mỹ. Đây là một sự đứt đoạn phần nào phản ánh cấu trúc của nền kinh tế. Ở Trung Quốc chẳng hạn, khu vực dịch vụ và các bộ phận khác của nền kinh tế cần người có trình độ cao vẫn còn tương đối nhỏ, mặc dù đang lớn dần.xl Ở Tây ban Nha, cũng có những khó khăn tương tự, tuy tỉ lệ thất nghiệp hẳn nhiên cũng là hậu quả của suy thoái kinh tế và sự hồi phục rất chậm của các doanh nghiệp. Tuy thế một trong những câu chuyện tuyệt vời trong sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ, và là sự hỗ trợ cho quá trình dịch chuyển kinh tế xã hội, là hầu hết các tiểu bang đã tìm cách tạo ra nhu cầu với những người có bằng đại học trước khi nó trở thành một đòi hỏi nổi bật, rút cục là tạo đà cho tăng trưởng kinh tế dài hạn. Tôi cảm thấy bài học lịch sử này ngày nay vẫn còn có ý nghĩa nổi bật.

•    Phải chăng có thể thấy nhiều trường ĐH Quốc gia đang đóng vai trò là các trường ĐH hoa tiêu? – Nhiều trường có một số yếu tố của mô hình hoa tiêu, nhưng thiếu tự chủ, hoặc thiếu sự phong phú của các lĩnh vực chuyên ngành (rất nhiều trường được xếp hạng trên đỉnh chỉ tập trung vào khoa học tự nhiên và công nghệ), hoặc chưa chú trọng trách nhiệm phục vụ cộng đồng, hoặc chưa đủ năng lực và chính sách quản lý chất lượng nội bộ, hoặc kết hợp một số trong những điểm ấy. Trong lúc đó, các trường ĐH quốc gia, hay một nhóm nhỏ các trường tinh hoa, có danh tiếng và có ảnh hưởng trong một nước, một số trong đó đang khao khát vươn tới địa vị trường ĐH ĐCQT, có phần là để giành được tài trợ từ chính phủ. Đó là những trường có khả năng cao nhất để trở thành các trường ĐH hoa tiêu.

•    Mô hình hoa tiêu có cần được nhà nước chính thức xác nhận và cấp ngân sách? –  Như đã nêu trên, mô hình hoa tiêu có thể là một khát vọng, giúp định hướng cách xử sự của những trường đã tương đối (hoặc rất) trưởng thành, những trường nhìn thấy giá trị của mình trong việc phục vụ lợi ích công. Mô hình này có khả năng thay thế, hoặc giúp điều chỉnh lại hình mẫu về ĐH ĐCQT.  Ngày càng nhiều người công nhận rằng cần có sự khác biệt về sứ mạng của các trường, nghĩa là không phải tất cả các trường đều như nhau. Cuộc chạy đua ĐH ĐCQT chỉ là một ví dụ về sự công nhận này; phổ biến hơn là những nỗ lực gián tiếp tạo ra sự phân biệt, ví dụ như rà soát và điều chỉnh cơ chế cấp ngân sách, như ở Anh.     

Rút cục, sự tiến triển được mong muốn sẽ là có một số trường, có thể thông qua cạnh tranh do chính phủ phát động, đạt được sự công nhận của nhà nước, là ĐH hoa tiêu– điều chỉnh từ hình mẫu ĐH ĐCQT là thứ đang làm các bộ giáo dục và một số trường mê đắm. Tự xác định mình là ĐH hoa tiêu cũng là con đường khả dĩ, con đường này ít gặp sự kháng cự chống đối hơn, nhưng có lẽ cần một đoạn đường dài để đạt được mục tiêu nếu không có nguồn tài chính bổ sung nào khác. Tuy vậy, một số trường có thể tự xác định con đường của mình là trở thành ĐH hoa tiêu, thông qua chiến lược và kế hoạch đào tạo của mình để vận động nguồn tài trợ từ chính phủ.

•    Một trường tư có thể trở thành một trường ĐH hoa tiêu của quốc gia hay không? – Lý tưởng hoa tiêu có con đường phát triển lịch sử từ trường công, với trách nhiệm chủ yếu (ở Mỹ cũng như ngày càng nhiều trên phạm vi quốc tế) là nhấn mạnh việc phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch xã hội. Tuy thế nhiều trường tư trong đó có những trường thuộc các tổ chức Thiên chúa giáo, có chứa ít nhiều đặc điểm của ĐH hoa tiêu và mong muốn đạt được một hồ sơ thành tích như những gì đã được miêu tả ở phần trên. Nhưng tôi có khuynh hướng xem mô hình này là phù hợp nhất cho một nhóm nhỏ trường công được giao nhiệm vụ trở thành dẫn đầu cho cả hệ thống và gắn tài trợ của ngân sách công với việc thúc đẩy phục vụ lợi ích công và giúp định hình cho giáo dục phổ thông nói chung.

Đang có một khoảng trống hiểu biết về việc tại sao các trường hàng đầu lại tồn tại, và tham vọng của họ nên là như thế nào. Cho đến nay, hình ảnh hoa mỹ về ĐH ĐCQT vẫn đang là động lực ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ nhiều nước (không phải tất cả đều dở) và cách xử sự của các trường (không phải tất cả đều dở). Tuy thế hình mẫu này có một tầm nhìn quá hạn chế, theo quan điểm của tôi, thực chất đã là một lực lượng kìm hãm các trường đại học quốc gia trong việc đạt được những gì họ cần phải đạt đến.   

Trường ĐH hoa tiêu, với một hồ sơ có tính chất thăm dò được đưa ra trên đây, là một mô hình bổ sung và chắc chắn là toàn diện hơn có thể áp dụng cho một nhóm nhỏ các trường ĐH chủ chốt.  Tuy các chính phủ và các bên liên quan khác có quyền chính đáng để tác động lên sứ mạng và hoạt động của các trường cũng như định dạng cho nó, mô hình hoa tiêu theo nhận thức của tôi có thể mang lại một con đường cho một số trường để  tìm kiếm bản sắc của nhà trường một cách rõ nét hơn, tạo ra một nền văn hóa tự cải thiện mạnh mẽ hơn, và cuối cùng, đóng góp lớn lao hơn cho sự phát triển kinh tế và sự chuyển dịch kinh tế xã hội mà nước nào cũng đều mong đạt đến. Để điều đó biến thành hiện thực, một số trường cần phải gắn bó với một mô hình rõ nét và bày tỏ dứt khoát về con đường của mình. Một lần nữa, ĐH ĐCQT và hình mẫu tạo ra bởi các bảng xếp hạng vẫn đang lan tràn phổ biến khắp nơi, trở thành một phần lớn trong văn hóa nhận thức của các bộ giáo dục, các nhà quản lý, các học giả về GDĐH, và có thể sẽ chẳng bao giờ bị thay thế. 

Viết xong ngày 22.1.2014

PHỤ LỤC 1

Đặc điểm của Trường ĐH ĐCQT

Nguồn: Jamil Salmi, Thách thức trong việc xây dựng ĐH ĐCQT” World Bank 2009; Alden, J., and G. Lin. 2004. “Đối sánh đặc điểm của Trường ĐH ĐCQT: Xây dựng chiến lược quốc tế ở cấp trường.”  Leadership Foundation for Higher Education, London.

o    Có uy tín quốc tế trong nghiên cứu;

o    Có uy tín quốc tế trong hoạt động giảng dạy;

o    Có một số ngôi sao trong hoạt động nghiên cứu, những người dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực chuyên ngành của họ;

o    Không những được những trường ĐH ĐCQT khác công nhận, mà còn cả thế giới bên ngoài GDĐH cũng công nhận;

o    Có một số đơn vị, khoa, trung tâm đạt đẳng cấp quốc tế (nghĩa là, không nhất thiết mọi đơn vị);

o    Được xây dựng trên thế mạnh của mình về nghiên cứu và có uy tín cũng như trọng tâm đặc biệt (nghĩa là, hàng đầu trên những lãnh vực cụ thể); 

o    Tạo ra những ý tưởng cách tân, tạo ra nhiều kết quả nghiên cứu cơ bản cũng như ứng dụng;

o    Làm ra những kết quả nghiên cứu đột phá được giới chuyên môn công nhận thể hiện qua các giải thưởng (ví dụ, được trao giải Nobel);

o    Thu hút được những sinh viên tài năng và tạo ra những người tốt nghiệp tốt nhất;

o    Có thể thu hút và giữ chân được những giảng viên tài năng nhất;

o    Có thể tuyển dụng được giảng viên quốc tế và thu hút được sinh viên quốc tế trên thị trường toàn cầu;

o    Thu hút được nghiên cứu sinh với tỉ lệ cao (để đào tạo họ và để làm nghiên cứu);

o    Thu hút một tỉ lệ cao sinh viên quốc tế;

o    Hoạt động trong thị trường toàn cầu và mang tính chất quốc tế trong nhiều hoạt động (ví dụ, liên kết trong nghiên cứu, giao lưu giảng viên và sinh viên, nhiều khách quốc tế là những người có cương vị và thành tích cao);

o    Có nền tảng tài chính vững chắc;

o    Nhận được nguồn vốn hiến tặng và thu nhập lớn;

o    Có nguồn thu đa dạng (ví dụ, từ ngân sách nhà nước, từ các doanh nghiệp hay khu vực tư nhân, từ các hợp đồng nghiên cứu, và từ học phí của sinh viên nước ngoài);

o    Mang lại một môi trường học tập/nghiên cứu có tính chất hỗ trợ và có chất lượng cao cho giảng viên và sinh viên (ví dụ, cơ sổ vật chất và trang thiết bị hiện đại);

o    Có đội ngũ quản lý hạng nhất, với tầm nhìn chiến lược và một kế hoạch hành động; 

o    Đào tạo ra những người cuối cùng sẽ đạt đến vị trí có ảnh hưởng lớn hay có quyền lực (tức là, những người tạo ra chuyển động mạnh mẽ ví dụ như thủ tướng hay tổng thống);

o    Có một lịch sử thành tựu lâu dài (ví dụ như Cambridge ở Anh hay Harvard ở Hoa Kỳ);

o    Có những đóng góp lớn lao cho xã hội và thời đại;

o    Không ngừng tự đối sánh mình với những trường thuộc hàng đỉnh cao khác trên teh61 giới, và

o    Tự tin xác lập kế hoạch hành động của riêng mình

Người dịch: Phạm Thị Ly
Viện Đào tạo Quốc tế, Đại học Quốc gia TPHCM


Tài liệu tham khảo:

Alden, J., and G. Lin. (2004). “Benchmarking the Characteristics of a World-Class University: Developing an International Strategy at University Level.”  Leadership Foundation for Higher Education, London.

Altbach, Philip (2005). “A world class country without world class higher education: India’s 21st century dilemma,” International Higher Education Summer 2005.

Altbach, Philip (2003). “The costs and benefits of world-class universities,” International Higher Education (Fall 2003)

Asian Development Bank News (2001). “Viet Nam to Build its First World-Class University.” http://www.adb.org/Documents/News/VRM/vrm_200107.asp

Business Weekly (2002). “Building top-notch universities.” (April 24, 2002) Web-site: http://www.chinadaily.com.cn/chinagate/doc/2002-04/24/content_247215.htm

Cheng, Y & Liu, N.C. (2005). “Forecasting world class universities from GDP perspective,” In Liu, Nian Cai, ed. (2005) Proceedings of the First International Conference on World-Class Universities (WCU-1) (Shanghai: Shanghai Jiao Tong University).

Chirikov, Igor (2013). “Research Universities as Knowledge Networks: The Role of Institutional Research, Studies in Higher Education, Vol. 38. No. 3: 456-469.

Cloete, N. et al (2011). Universities and Economic Development in Africa, Higher Education Research and Advocacy Network in Africa (HERANA) Centre for Higher Education Transformation, Cape Town, South Africa.

Douglass, J.A. (1998). “Shared Governance at the University of California,” CSHE Research and Occasional Papers, CSHE.1.98 (March) http://cshe.berkeley.edu/shared-governance-university-california-historical-review;

Douglass, J.A. (2009). “Higher Education’s New Global Order: How and Why Governments are Creating Structured Opportunity Markets,” CSHE Research and Occasional Papers Series, December: http://cshe.berkeley.edu/publications/publications.php?id=348.

Douglass, J.A. (2009). “The Race for Human Capital” in J. A. Douglass, C.J King and I. Feller (ed.), Globalization’s Muse: Universities and Higher Education Systems in a Changing World (Berkeley Public Policy Press 2009).

Douglass, J.A. (2012). “China Futurisms: Research Universities and Leaders or Followers?” Social Research: An International Quarterly, vol.79, no. 3, pp. 639-688.

Eaton, Judith (2004). “The opportunity cost of the pursuit of international quality standards,” International Higher Education (Summer 2004)

Filliatreau, Ghislaine and Michel Zitt (2005). “Being a World-Class University: Bibliometric Considerations,” In Liu, Nian Cai, ed. (2005) Proceedings of the First International Conference on World-Class Universities (WCU-1) (Shanghai: Shanghai Jiao Tong University).

Fong, Pang, & Linda Lim (2003). “Evolving great universities in small and developing countries,” International Higher Education (Fall 2003)

Frazer, Malcolm (1994). “Quality in Higher Education: An International Perspective,” in Diana Green, ed., What Is Quality in Higher Education? London: Society for Research into Higher Education, 1994, pp. 101-111

Huisman, J. (2008). World-class universities. Higher Education Policy, 21(1), 1–4.
Hobbs, Arthur (1997). “World Class University and cultural diversity,” Web-site: http://www.math.tamu.edu/~arthur.hobbs/3d.html

Jackman, W. Robert and Randolph M. Siverson (1996). “Ratings the Rating: An Analysis of the National Research Council’s Appraisal of Political Science Ph. D. Programs.” PS: Political Science and Politics, Vol. 29, No. 2 (Jun., 1996), 155-160.

Jiang, Xueqin (2001). “China’s Top 2 Universities Try for ‘World Class’ Status.” The Chronicle of Higher Education Web-site: http://chronicle.com/weekly/v48/i17/17a03301.htm

King, R. (2011). Universities Globally: Organizations, Regulation and Rankings. Cheltenham: Edward Elgar.

King, Christine (2003). “World Class?” Web-site:
http://education.guardian.co.uk/worldclass/story/0,14048,1085324,00.html

Knobel, Marcelo, Tania Patricia Simoes, and Carlos Henrique de Brito Cruz (2013). “International Collaborations Between Universities: Experiences and Best Practices,” Studies in Higher Education, 2013, Vol. 38. No. 3: 405-424.

Lee, Gilton (2000). “Brain Korea 21: A development-oriented national policy in Korean higher education,” International Higher Education (Spring 2000)

Liu, N. C., Wang, Q., & Cheng, Y. (Eds.). (2011). Paths to a World-Class University. Global Perspectives in Higher Education, 43. Rotterdam: Sense Publishers.

Ma, W. (2008). The University of California at Berkeley: An emerging global research university. Higher Education Policy, 21(1), 65–81.

Marginson, S. (2008). “Ideas of a University for the global era.” Paper for seminar on Positioning University in the Globalized World: Changing Governance and Coping Strategies in Asia. Centre of Asian Studies, The University of Hong Kong; Central Policy Unit, HKSAR Government; and The Hong Kong Institute of Education, 10-11 December, The University of Hong Kong.

Marginson, S. (2011). Higher Education in East Asia and Singapore: Rise of the confucian model. Higher Education, 61(5), 587–611.

Mohrman, Kathryn (2005). “World-class universities and Chinese higher education reform,” International Higher Education (Spring 2005).

Mowery, David C., Richard R. Nelson, Bhaven N. Sampat, and Arvids A. Zeidonis (2004). Ivory Tower and University-Industry Technological Transfer Before and After the Bayh-Dole Act, Stanford CA: Stanford University Press.

National Research Council (1995). Research-Doctorate Programs in the United States: Continuity and Change. Washington, DC: National Academy Press.

Ngok, Kenglun & Weiging Guo (2008). The Quest for World Class Universities in China: critical reflections, Policy Futures in Education, Vol 6, No 5.

Niland, John (2000). “The challenge of building world class universities in the Asian region,” On Line opinion (Australia’s e-journal of social and political debate) Website: http://www.onlineopinion.com.au/view.asp?article=997

Postiglione, G. (2011). The rise of research universities: The Hong Kong University of Science and Technology. In P. Altbach & J. Salmi (Eds.), The Road to Academic Excellence: The Making of World-Class Research Universities (pp. 63–100). Washington: The World Bank.

Proctor, Lita M (2005). “Presentation to the President’s commission of the future of FSU,” Web-site: http://www.fsu.edu/~future/proctor.html

Proulx, R. (2005). “Criteria for ranking universities with affiliated components” In Liu, Nian Cai, ed. (2005) Proceedings of the First International Conference on World-Class Universities (WCU-1) (Shanghai: Shanghai Jiao Tong University).

Shattock, M. (2013). “University Governance, Leadership and Management in a Decade of Diversification and Uncertainty,” Higher Education Quarterly, Vol 67, No 2, pp. 217-233.
Stensaker, B. (2013). “Re-Inventing Shared Governance: Implications for Organizational Culture and Institutional Leadership, Higher Education Quarterly, Vol 67, No 2, pp. 256-274.

Tijani, Ibikunle H. (2013). “Developing World Class Universities in Nigeria: Challenges, Prospects and Implications,” paper delivered at the 2nd FUNAI Leadership Development Seminar, Federal University Ndufu-Alike Ikwo, Ebonyi State, Nagieria, June 5.

Salmi, Jamil, and Alenoush Saroyan (2007). League Tables as Policy Instruments: Uses and Misuses. Higher Education Management and Policy 19 (2): 31–68.

Vest, Charles (2005). “World class universities: American lessons,” International Higher Education (Winter 2005).

Volkwein, Fredericks J., Ying Liu, and James Woodell (2012). “The Structure and Functions of Institutional Research Offices,” in Howard, Richard D., Gerald W. MacLaughlin, and William E. Kight (ed), The Handbook of Institutional Research, San Francisco: Josse-Bass.

Wang, Yingjie (2001). “Building the world-class university in a developing country: universals, uniqueness, and cooperation.” Asia Pacific Education Review (2001), Vol. 2, No.2.

Wende, M. C. van der. (2009). European Responses to Global Competitiveness in Higher Education. Research and Occasional Paper Series, No.7, 2009. Berkeley: Center for Studies in higher Education, University of California: http://cshe.berkeley.edu/european-responses-global-competitiveness-higher-education.

xxxviii “Hefei Statement on the Ten Characteristics of Contemporary Research Universities” joint statement of the Association of American Universiities, Group of Eight, League of European Research Universities, Chinese 9 Universities October 10, 2013: See http://www.leru.org/files/news/Hefei_statement.pdf

xxxix Nico Cloete et al (2011). Universities and Economic Development in Africa, Higher Education Research and Advocacy Network in Africa (HERANA) Centre for Higher Education Transformation, Cape Town, South Africa.

xxxx Thảo luận về những thách thức mà các trường ĐH Trung Quốc đang đương đầu, xem “China Futurisms: Research Universities and Leaders or Followers?” Social Research: An International Quarterly, vol.79, no. 3 Fall 2012, pp. 639-688: http://socialresearch.metapress.com/link.asp?id=bv6l4755157834u4 ; a version published in University World News Dec 16, 2012 Issue No 252:
 http://www.universityworldnews.com/article.php?story=20121212160450595  (Đã được dịch ra tiếng Việt. Xem bản tin IIE số 8-2013)

Tác giả

(Visited 5 times, 1 visits today)