Tài nguyên giáo dục mở: Một phần của chuyển đổi số trong giáo dục

LTS: Tại phiên họp thứ ba của Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, Tiểu ban Giáo dục Thường xuyên và Học tập suốt đời “Phát triển giáo dục thường xuyên theo hướng tiếp cận với Cách mạng công nghiệp 4.0” ngày 16/10/2020, chuyên gia Lê Trung Nghĩa (Ban Tư vấn Phát triển Giáo dục Mở, Hiệp hội các trường đại học cao đẳng Việt Nam) đề xuất việc ứng dụng và phát triển tài nguyên giáo dục mở để phát triển giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời theo hướng tiếp cận với CMCN4 và đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững 4 về giáo dục của Liên Hiệp Quốc tới năm 2030. Tia Sáng giới thiệu với bạn đọc một phần tham luận của chuyên gia Lê Trung Nghĩa.


Cần phát triển giáo dục theo hướng tiếp cận với CMCN4. Nguồn: vov

Trong công cuộc chuyển đổi số lớn hơn của xã hội, tài nguyên giáo dục mở sẽ là một phần không thể thiếu của nó. Nếu không nghĩ đến tài nguyên giáo dục mở, chúng ta khó có thể chuẩn bị tốt cho CMCN4 và khó có thể đào tạo nguồn nhân lực tương lai đáp ứng các yêu cầu của CMCN4. 

Cách mạng công nghiệp 4 (CMCN4) sẽ tạo ra một nền công nghiệp mới, nơi máy móc trở thành một thực thể độc lập có khả năng thu thập, phân tích dữ liệu và đưa ra những tư vấn dựa trên dữ liệu. Các công nghệ tham gia vào quá trình sản xuất hàng loạt hầu hết đều nằm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT), và dữ liệu chính là nguyên liệu thô quan trọng không thể thiếu cho các công nghệ đó với dữ liệu mở của ngành giáo dục là một phần trong đó. Cũng cần nhấn mạnh là từ góc độ của cấp phép mở, dữ liệu mở (của ngành giáo dục) là một tập con của tài nguyên giáo dục mở.

Qua đó có thể thấy, một nền công nghiệp mới sẽ đòi hỏi tập hợp mới các kỹ năng. Trong bối cảnh đó, giáo dục và đào tạo sẽ có hình hài mới đủ khả năng cung cấp cho một nền công nghiệp mới một nguồn lao động với đầy đủ các kỹ năng cần thiết. Khi việc sản xuất hàng loạt chủ yếu dựa vào các công nghệ trong lĩnh vực CNTT-TT, dễ thấy lao động có kỹ năng CNTT-TT là quan trọng và không thể thiếu, dù chúng không là duy nhất.

Trong tài liệu “Khung năng lực CNTT-TT cho các giảng viên” phiên bản 3 (ICT CFT V3) vào năm 2018, UNESCO nêu năng lực tài nguyên giáo dục mở được tích hợp ở cả ba mức độ sử dụng sư phạm CNTT-TT và ở 4 trong số 18 kỹ năng CNTT-TT của khung đó. Tới nay, khoảng 20 quốc gia, tổ chức/cơ sở giáo dục trên thế giới đã và đang phát triển khung năng lực này. Điều quan trọng là tất cả các tài nguyên được sử dụng để xây dựng các khung năng lực của các quốc gia và/hoặc cơ sở giáo dục đó đều được cấp phép mở đều là các tài nguyên giáo dục mở, cho phép bất kỳ ai cũng có thể tự do không mất tiền để tùy biến thích nghi/sửa đổi chúng cho phù hợp với ngữ cảnh của bất kỳ quốc gia và/hoặc cơ sở nào khác muốn phát triển khung năng lực tương tự cho mình. Nếu chính phủ hay bất kỳ tổ chức/cơ sở giáo dục nào của Việt Nam muốn xây dựng cho mình khung năng lực CNTT-TT đều không phải làm từ đầu, từ không có gì cả, mà vẫn có thể xây dựng trên cơ sở ‘đứng trên vai những người khổng lồ’.


Từ góc độ của cấp phép mở, dữ liệu mở là tập con của tài nguyên giáo dục mở.

Với ICT CFT V3, tài nguyên giáo dục mở có khả năng giúp cho các giảng viên trước hết có thể có được tri thức dễ dàng nhất mà không phải đối mặt với các rào cản cả về tài chính, pháp lý và kỹ thuật, để rồi từ đó đào sâu tri thức và sau đó sáng tạo tri thức. Bằng cách này các giảng viên còn có khả năng để trở thành các nhà đổi mới sáng tạo, điều quan trọng bậc nhất để tiếp cận CMCN4.

Vài gợi ý cho giáo dục Việt Nam 

Việc đào tạo nhân lực đáp ứng đầy đủ yêu cầu của CMCN4 sẽ là một quá trình dài, do đó theo tôi, để đạt được hiệu quả như mong muốn thì chúng ta nên tính đến những phần công việc có thể thực hiện trong ngắn hạn và dài dạn, trên cơ sở tính tới tính khả thi về thời gian để xây dựng và triển khai các gợi ý đó. 

Về ngắn hạn, có các công việc có thể thực hiện được sớm:

1. Đưa môn học “Cơ bản về tài nguyên giáo dục mở” với nội dung cấp phép mở như là một môn học bắt buộc và có tín chỉ. Tài nguyên giáo dục mở là xu thế không thể đảo ngược của thế giới. Mặt khác, sự xuất hiện ngày một nhiều các trang đa ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt như Merlot, CK-12 hoặc PHET cho phép các học sinh, sinh viên Việt Nam bây giờ có thể ngồi ở Việt Nam, học các khóa học và/hoặc tài nguyên giáo dục mở của nước ngoài bằng tiếng Việt. Điều này vừa là cơ hội vừa là thách thức cho giáo dục Việt Nam.

Bên cạnh hàng loạt các lợi ích mà tài nguyên giáo dục mở có thể đem lại cả cho các giảng viên, sinh viên và cơ sở giáo dục, Việt Nam có thể gặp những thách thức không nhỏ, khi các vấn đề của MỞ hầu như chưa/không hiện diện trong hầu hết các cơ sở giáo dục ở mọi cấp học, bao gồm cả vấn đề cơ bản nhất và nằm trong bản thân định nghĩa tài nguyên giáo dục mở là cấp phép mở cho các tài nguyên để chúng có khả năng mở cho bất kỳ ai cũng có thể tự do không mất tiền để truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi và phân phối lại chúng; trong khi, theo Luật Sở hữu trí tuệ, bất kỳ tài nguyên hay tác phẩm mới nào được sáng tạo ra cũng đều được luật đó bảo hộ, bất kể tác giả có đăng ký nó hay không.

Ứng dụng và phát triển tài nguyên giáo dục mở là con đường hướng tới phát triển giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời theo hướng tiếp cận với CMCN4, cụ thể phù hợp với: xu thế phát triển tài nguyên giáo dục mở và Giáo dục Mở của thế giới; sự phát triển các công nghệ cốt lõi của CMCN4 như AI, IoT hoặc Dữ liệu Lớn cũng như các công nghệ được vạch ra trong Khung năng lực CNTT-TT cho các giảng viên phiên bản 3 của UNESCO…

Nói cách khác, tài nguyên không được cấp phép mở sẽ không là tài nguyên giáo dục mở, vì vậy, cấp phép mở cần phải là nội dung không thể thiếu trong bất kỳ cơ sở giáo dục ở bất kỳ cấp học nào, đặc biệt là trong hệ thống các cơ sở giáo dục sư phạm và giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời.

2. Xây dựng chương trình ‘Lồng tiếng Việt cho các video tiếng nước ngoài’ là các tài nguyên giáo dục mở được cấp phép mở, sẵn có trên Internet. Một thị trường rộng lớn với khoảng 90% dân số Việt Nam từ độ tuổi 15 tuổi trở lên tới hết đời là những người không học đại học và họ cần có một nghề để sống và làm việc. Chương trình này sẽ giúp cho nhiều người có khả năng có được một nghề nào đó một cách nhanh chóng nhất có thể, tiết kiệm nhất có thể, và ở phạm vi rộng nhất có thể. Nếu được xây dựng, nó nên làm theo thứ tự ưu tiên từ các ngành nghề có nhu cầu cao nhất trong xã hội trở xuống.

3. Triển khai các khóa huấn luyện huấn luyện viên về khai thác tài nguyên giáo dục mở cho hệ thống các cơ sở giáo dục sư phạm và giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời cấp trung ương và tỉnh thành. Hiện nay, Ban Tư vấn Phát triển Giáo dục Mở (OEDAB) của Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã và đang cung cấp các khóa thực hành khai thác tai nguyên giáo dục mở nhằm giải quyết bài toán này theo phương thức huấn luyện huấn luyện viên, cả trực tuyến và phi trực tuyến, cả lý thuyết và thực hành bằng việc sử dụng bộ các công cụ CNTT-TT là các phần mềm tự do nguồn mở, được cấp phép mở, đảm bảo không có các rào cản về tài chính, pháp lý và kỹ thuật mà không mất chi phí mua giấy phép sử dụng bộ các phần mềm đó bằng, không vi phạm bản quyền. OEDAB sẵn sàng triển khai và/hoặc hợp tác với các cơ quan, đơn vị có liên quan để triển khai các khóa huấn luyện như vậy cho hệ thống các trường sư phạm, cũng như trong toàn bộ mạng lưới cơ sở giáo dục từ xa và học tập suốt đời cấp trung ương và tỉnh – thành. Hiện tại, các khóa thực hành này có nội dung ở 2 mức: cơ bản và nâng cao- mức này tập trung vào giải pháp sử dụng phần mềm nguồn mở hướng tới việc lồng tiếng Việt cho các video tiếng Anh.


Mô hình đào tạo qua một phòng học ảo tới vài phòng học vật lý đã triển khai trong thực tế. 

4. Tận dụng mô hình đào tạo trực tuyến để triển khai nhanh hơn các khóa huấn luyện thực hành khai thác tài nguyên giáo dục mở. Việc triển khai các khóa huấn luyện về thực hành khai thác tài nguyên giáo dục mở thời gian qua ở các trường đại học và cao đẳng khắp cả nước cho thấy không phải cơ sở giáo dục nào cũng có được các phòng máy, hệ thống âm thanh và kết nối Internet đáp ứng được nhu cầu của khóa huấn luyện. Trong khi đó, cũng có các cơ sở có đủ các điều kiện để cùng một lúc triển khai khóa huấn luyện trên trực tuyến, thường qua một phòng học ảo với một phần mềm hội nghị trực tuyến qua video tới 2 – 3 phòng học vật lý ở các địa điểm khác nhau, như đã được triển khai trong thực tế thời gian qua.

Điều này gợi ý về khả năng triển khai nhanh hơn và rộng hơn các khóa huấn luyện khai thác tài nguyên giáo dục mở nếu có sự chuẩn bị thích hợp. Bên cạnh đó cũng có lựa chọn triển khai phổ cập các khóa huấn luyện đó thông qua việc ghi lại toàn bộ khóa huấn luyện thành video và/hoặc video phát trực tiếp (live streaming video).

Các công việc có thể chuẩn bị để triển khai trong dài hạn

1. Phát triển chính sách hỗ trợ cho tài nguyên giáo dục mở. Do đây chỉ là một tập con của tài nguyên truy cập mở nên để việc triển khai các hoạt động về tai nguyên giáo dục mở được thuận lợi, không có hoặc ít có xung đột về lợi ích giữa các bên, chúng ta nên phát triển chính sách truy cập mở trước hoặc đồng thời với chính sách tài nguyên giáo dục mở. Điểm khởi đầu tốt có thể là chính sách truy cập mở tới các xuất bản phẩm và dữ liệu là kết quả nghiên cứu của các giảng viên và/hoặc cấp phép mở cho các tài liệu nội sinh trong các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng được chọn làm thí điểm để mở rộng sau đó.

2. Cân nhắc lại quy định về kiểm định giáo dục đối với các tư liệu trong thư viện. Khi triển khai các khóa huấn luyện ở các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng thời gian vừa qua, chúng tôi đã nhận được một vài phản hồi của các cán bộ, giảng viên và nhân viên thư viện xung quanh các quy định về kiểm định giáo dục hiện hành không/chưa công nhận các tư liệu giáo dục trong các thư viện, dù chúng là các tài nguyên giáo dục mở chất lượng, nằm trong các kho nổi tiếng với hàng ngàn trường đại học và cao đẳng khắp trên thế giới sử dụng chúng. 

Điều này có lẽ là chưa phù hợp với công văn số 2516/BGDĐT – GDĐH ngày 18/06/2018 của Bộ GD&ĐT về phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao và các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, trong đó mục 7 nêu: Tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin, tài liệu học tập dùng chung cũng như sử dụng các nguồn tài nguyên mở (OER – Open Education Resources; OCW – Open Course Ware) của các trường đại học uy tín trên thế giới nhằm giúp sinh viên, giảng viên được tiếp cận, cập nhật thông tin, tri thức toàn cầu.

3. Triển khai thí điểm việc đánh dấu khóa học mở và chấp nhận được. Từ năm 2015, việc này đã được tiến hành tại nhiều trường đại học và cao đẳng, bao gồm các trường cao đẳng cộng đồng và kỹ thuật ở Mỹ và Canada. Bên cạnh việc tiết kiệm chi phí mua sách giáo khoa và các vật tư được yêu cầu cho các khóa học của các sinh viên, công việc này bản thân nó được coi như là giai đoạn đầu của việc đánh dấu khóa học mở và tài nguyên giáo dục mở, bởi cụm từ “chấp nhận được” ở đây thường đi với các chi phí thấp và/hoặc không mất chi phí đối với các tư liệu khóa học, bao gồm cả các tư liệu sở hữu độc quyền (không mở). Sinh viên thường sẽ mất khả năng truy cập sau khi tốt nghiệp, dù họ có thể rất cần truy cập tới chúng kể cả sau khi tốt nghiệp và đi làm. Trong khi với tài nguyên giáo dục mở là các tài nguyên hoặc nằm trong phạm vi công cộng, hoặc được cấp phép mở tuân thủ các quyền sở hữu trí tuệ của người nắm giữ bản quyền, sẽ trao quyền hợp pháp cho các sinh viên để lưu giữ các bản sao tư liệu khóa học vĩnh viễn.

4. Hướng tới phát triển chính sách hỗ trợ cho Khoa học Mở và các thành phần. Khuyến cáo Giáo dục Mở dự kiến sẽ được phê chuẩn vào tháng 11/2021 nhân Hội nghị toàn thể lần thứ 41 của UNESCO. Ý tưởng đằng sau Khoa học Mở là để cho phép thông tin, dữ liệu và các kết quả đầu ra của khoa học truy cập được rộng rãi hơn (Truy cập Mở) và khai thác được tin cậy hơn (Dữ liệu Mở) với sự tham gia tích cực của tất cả các bên tham gia đóng góp (Mở cho Xã hội – Open to Society). Rõ ràng, tài nguyên giáo dục mở và nhiều khái niệm MỞ khác, đều nằm dưới cái ô Khoa học Mở, vì vậy Khuyến cáo Khoa học Mở của UNESCO sắp tới sẽ có liên quan tới Khuyến cáo tài nguyên giáo dục mở. Điều này càng khẳng định tính cấp bách cho giáo dục Việt Nam dịch chuyển sang Giáo dục Mở với nền tảng cơ bản tài nguyên giáo dục mở để tiếp cận nhanh tới Khoa học Mở.

Tại châu Âu từ vài năm trở lại đây đã có các cơ sở đào tạo chuyên cung cấp các khóa đào tạo các kỹ năng cho Khoa học Mở, bao gồm các kỹ năng của nhiều thành phần của Khoa học Mở như tài nguyên giáo dục mở, truy cập mở, dữ liệu mở hay cấp phép mở v.v. cho nhiều đối tượng là các bên tham gia đóng góp cho tài nguyên giáo dục mở. Bên cạnh đó, họ cũng đưa ra ma trận đánh giá sự nghiệp của các nhà nghiên cứu theo Khoa học Mở – OSCAM (Open Science Career Assessment Matrix) với 23 tiêu chí chia thành 6 nhóm khác nhau, tất cả đều liên quan tới các kỹ năng MỞ của các thành phần của Khoa học Mở, điều có lẽ chưa từng có trong bất kỳ cơ sở giáo dục nào ở Việt Nam. Đây là thách thức lớn cho đội ngũ các giảng viên, đặc biệt là giảng viên đại học bởi trước hết họ đều là các nhà nghiên cứu khoa học.

Định hướng Giáo dục Mở trong Nghị quyết số 29-NQ/TW năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, hay Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 khẳng định hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam là hệ thống giáo dục mở và “Phát triển hệ thống giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học tập suốt đời”, công văn số 4301/BGDĐT-GDTX ngày 20/09/2019 của Bộ GD&ĐT về việc xây dựng và phát triển tài nguyên giáo dục mở.
Quyết định 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 03/06/2020 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”[39], trong đó chuyển đổi số trong giáo dục là lĩnh vực đứng hàng thứ hai trong tám lĩnh vực ưu tiên, với nội dung cụ thể như: “Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa”, Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/04/2020 của Chính phủ về “quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước”, trong đó có mục dành riêng và nhiều mục có nội dung liên quan tới dữ liệu mở của cơ quan nhà nước.

Kết luận

Chuyển đổi số sẽ tạo ra dữ liệu dạng số và dữ liệu mở chính là dữ liệu dạng số mở. Dữ liệu, bao gồm cả dữ liệu mở, là nguyên liệu cho các công nghệ đương thời như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet của Vạn vật (IoT) hay dữ liệu lớn (Big Data),v.v., đều là các công nghệ chủ đạo trong CMCN4. Ứng dụng và phát triển tài nguyên giáo dục mở là phần công việc quan trọng của chuyển đổi số trong giáo dục, trong đó có chuyển đổi số trong giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời vì từ góc độ của cấp phép mở, với dữ liệu mở trong giáo dục là tập con của tài nguyên giáo dục mở. Mặt khác, tương tự như giải thích ở đoạn trên, dữ liệu mở trong giáo dục cũng còn là tập con của dữ liệu giáo dục – là kết quả của việc chuyển đổi số trong giáo dục. 

Dù phát triển TNGDM phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, đường lối phát triển của chính phủ Việt Nam, bao gồm sự phát triển giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời theo hướng tiếp cận với CMCN4, nhưng rất nhiều công việc cần phải làm còn đang ở phía trước và chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn, thậm chí có rủi ro xung đột với các luật, quy định hiện hành ở mọi cấp có liên quan tới giáo dục cũng như có liên quan tới các bộ ngành khác trong Chính phủ cần phải được điều chỉnh cho phù hợp. Tuy nhiên, đó là việc chúng ta cần làm bởi rủi ro lớn nhất sẽ là không làm gì cả! □

Tác giả

(Visited 40 times, 1 visits today)