Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam: KINH NGHIỆM CỦA PHẦN LAN

Đối với Phần Lan giới trí thức được hiểu là những người có văn hóa hoặc nhóm người có văn hóa, những người này là những nhà tư tưởng thực tế và được xem là báu vật quốc gia. Giới trí thức dùng để chỉ cộng đồng những người có ảnh hưởng tới toàn bộ nền khoa học và văn hóa của xã hội. Các thành viên trong giới trí thức là người định ra bản chất của thời kỳ đó và là những người đứng ra tranh luận công khai các vấn đề. Theo quan điểm này thì ở Phần Lan đã hình thành giới trí thức từ những năm 1800, đó là thời điểm xuất hiện chính trị công khai và trên nền tảng của một nền giáo dục ưu việt với triết lý cơ bản là bình đẳng và cơ hội đồng đều với chất lượng cao nhất cho mọi công dân.

ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở PHẦN LAN

Cho dù xét trên tiêu chí nào thì Phần Lan cũng có đội ngũ trí thức mạnh. Trên thực tế, điều kiện cần của trí thức và đội ngũ trí thức chính là nền học vấn của một quốc gia. Nếu nhìn từ tiêu chí này, ta có thể hình dung được rõ tính ưu việt của Phần Lan so với các quốc gia khác. Theo thống kê của Phần Lan, 27% dân số Phần Lan có bằng đại học trở lên. 99,3% học sinh cấp ba thành thạo ít nhất 3 loại ngôn ngữ là tiếng Phần Lan, tiếng Thụy Điển và tiếng Anh. Tính tới cuối năm 2006, 64% dân số Phần Lan trên 15 tuổi, tức khoảng 2.806.000 trên tổng số dân trên 15 tuổi là 4.375.774 có bằng trung học trở lên. Trong số đó, có 21.280 tiến sĩ, chiếm 0.5%. Nếu nhìn sâu vào một trường đại học, như Đại học Helsinki, ta cũng có thể phần nào hình dung mức độ sản sinh tri thức mạnh mẽ từ nền giáo dục của nước này. Đại học Helsinki là một trong những ĐH hàng đầu của Phần Lan, xếp hạng thứ 4 trong số các trường ĐH châu Âu, với 11 khoa, 18 viện nghiên cứu độc lập. Theo Báo cáo năm 2006, tổng số sinh viên theo học lấy bằng là 38.000 sinh viên nhưng còn có tới 51.000 sinh viên theo học các khóa thường xuyên không lấy bằng cấp (continuing education). Hằng năm chỉ có 22% số lượng nộp đơn được nhận vào trường. Trường có 22 chi nhánh (campus) ở khắp đất nước. Số người làm việc tại Đại học Helsinki là 7.707 người trong đó đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu là 3.784. Kinh phí hoạt động hằng năm là 517 triệu Euro và tổng số bài viết khoa học được xuất bản hằng năm là 5830 trong đó 1904 bài báo được xuất bản tại Phần Lan và 3926 bài báo được xuất bản trên các ấn phẩm của thế giới. Nếu tính số bằng phát minh sáng chế theo đầu người, Phần Lan luôn đứng trong tốp đầu thế giới. Ngoài ra, nhờ vào hệ thống giáo dục toàn diện ưu việt của Phần Lan, học sinh Phần Lan ba lần liên tiếp đứng đầu điều tra PISA của 57 quốc gia phát triển toàn thế giới và mô hình này hiện đang trở thành hình mẫu để các quốc gia trên thế giới học tập.

Xét về khía cạnh phát triển kinh tế, nhờ vào tri thức và đội ngũ trí thức hùng hậu, sau gần 50 năm phát triển, Phần Lan được xem là một trong những nước phát triển nhất châu Âu. Kể từ năm 2001 vượt Mỹ trở thành nước cạnh tranh nhất về kinh tế, được Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá là nước có “văn hóa sáng tạo”. Các chỉ số so sánh với OECD về toàn cầu hóa, môi trường, tự do kinh tế, cạnh tranh, thành tựu công nghệ, giáo dục, tự do báo chí, tham nhũng, chỉ số phát triển con người, chỉ số cạnh tranh, tăng trưởng hầu hết đều dẫn đầu thế giới hoặc đứng ở trong tốp 10 thế giới. Dân số trung bình khoảng 5 triệu trong đó lực lượng lao động trung bình gần 2.7 triệu người nhưng trong một thập kỷ qua GDP luôn ở mức trung bình 150 tỷ Euro và đạt xấp xỉ 170 tỷ năm 2006; bình quân đầu người 38.000 Euro/năm. Tất cả những thành tựu trên đều xuất phát từ nền giáo dục chất lượng cao, luôn đứng trong tốp đầu các nước tạo ra các sản phẩm tri thức mới, trong đó NOKIA là một ví dụ điển hình. Dù dân số ít nhưng Phần Lan có tới 228.000 công ty vừa và nhỏ và cũng có tới 16 công ty trên tổng số 2000 công ty lớn nhất thế giới

 

BÀI HỌC PHẦN LAN

Do nhận thức cần phải xây dựng một xã hội và nền kinh tế dựa trên tri thức để tạo lợi thế cạnh tranh với thế giới và cũng do đặc thù của hệ thống chính trị và quan niệm xã hội tự do nên ở Phần Lan không đặt vấn đề “xây dựng đội ngũ trí thức”. Phần Lan tin rằng điều kiện tối thiểu cho trí thức là một môi trường tự do và không nên đưa trí thức vào thành một “đội ngũ”. Cũng giống như các nước phương Tây khác, ở Phần Lan báo chí là tự do, đại học và các viện nghiên cứu là hoàn toàn độc lập, Chính phủ không đóng vai trò quản lý mà chỉ đóng vai trò giám sát, nền kinh tế hoạt động theo quy luật thị trường và công chức hoàn toàn mang tính phục vụ. Phản biện xã hội được khuyến khích và Phần Lan là một trong số ít nước cho phép truyền hình được làm phim hài chiếu hằng tuần về các nhà lãnh đạo đương thời.

Phần Lan tin rằng xây dựng được giới trí thức mạnh cần phải bắt nguồn từ giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông. Trẻ em thất học từ nhỏ không những sẽ là một gánh nặng cho xã hội mà còn không thể và không bao giờ trở thành một trí thức. Do đặc thù dân số ít, thời tiết khắc nghiệt, nghèo tài nguyên và vị trí địa lý bất lợi nên Phần Lan chú trọng phát triển con người trở thành một nguồn tài nguyên. Phần Lan quan niệm rằng một con người được sinh ra là tài sản của quốc gia và cần phải được chăm sóc tốt nhất và đây chính là lực lượng lao động tạo nên tri thức và của cải cho xã hội để thay thế lớp người không còn sức lao động sau này. Chính vì thế xây dựng phúc lợi xã hội cơ bản cho người dân về giáo dục, y tế, nhà ở… luôn là ưu tiên hàng đầu và

Để đối phó với những khắc nghiệt của thiên nhiên, địch họa và có chỗ đứng trong thế giới văn minh hiện đại, Phần Lan luôn cho rằng phải xây dựng được nền giáo dục và xã hội dựa vào ba trụ cột chính là kỹ năng, tri thức và sáng tạo. Những mục tiêu chính trị đó là động lực thúc đẩy Phần Lan phải luôn phấn đấu duy trì được một nền giáo dục chất lượng cao và một xã hội học tập suốt đời.

trên thực tế đã trở thành những dịch vụ công tốt nhất.

 Triết lý cơ bản của nền giáo dục của Phần Lan là bình đẳng và cơ hội đồng đều với chất lượng cao nhất. Học tập từ mầm non cho tới bậc tiến sỹ là hoàn toàn miễn phí, kể cả sách vở và ăn uống tại trường. Giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông là cưỡng bách. Bên cạnh đó Phần Lan tin rằng nhân tố quan trọng nhất để giáo dục tạo ra được tri thức là giáo viên và văn hóa nhà giáo và do đó Phần Lan chú trọng xây dựng một đội ngũ giáo viên có tâm huyết và được đào tạo bài bản, nghề giáo là nghề được coi trọng bậc nhất trong xã hội. Cách đây 30 năm, tại Phần Lan không còn tồn tại Trường Sư phạm. Việc đào tạo giáo viên đã được chuyển hẳn sang đào tạo tại các trường đại học. Trên thực tế, tiêu chuẩn mà Phần Lan đang áp dụng cho giáo viên: dạy mầm non tối thiểu phải có bằng cử nhân, dạy tiểu học, trung học tối thiểu phải có bằng thạc Sỹ và dạy sinh viên phải là tiến sĩ, giáo sư, là một trong những tiêu chuẩn hầu như chưa có quốc gia nào theo kịp. Một điểm ưu việt khác của giáo đại học của Phần Lan là sự phân biệt rõ giữa Đại học thực hành (Polytechnique) là nơi đào tạo ra các kỹ sư, các nhà quản lý phục vụ cho thế giới công việc (professional world) và cung ứng nhân lực cho nền kinh tế hiện tại và Đại học hàn lâm (University) là nơi kết hợp giữa nghiên cứu và đào tạo kiến thức hàn lâm cho cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ và đòi hỏi sinh viên phải tạo ra những kiến thức mới trên cơ sở nghiên cứu và sáng tạo (thay vì học những kỹ năng làm việc ở trường Đại học thực hành)

Chính vì một nền giáo dục quyết liệt và ưu việt như vậy nên chất lượng giáo dục và nguồn tri thức do giáo dục tạo ra rất dồi dào. Học sinh trung học ở Phần Lan, ngoài việc kiến thức liên tiếp đứng đầu trong thế giới các nước phát triển còn biết thành thạo ít nhất từ 3-5 ngoại ngữ. Các trường đại học và các viện nghiên cứu luôn nằm trong tốp 5 nước đứng đầu sản sinh ra nhiều bằng sáng chế và phát minh mới của thế giới nếu tính bình quân đầu người. Kiến thức của sinh viên ra trường cập nhật với tình hình thế giới và thị trường và hiếm có quốc gia nào có tỷ lệ 56% sinh viên có việc làm khi còn đang học tập và 90% sinh viên tốt nghiệp sau một năm có thể tìm được việc làm phù hợp với ngành học của mình như ở Phần Lan.

 

SỬ DỤNG TRÍ THỨC: TRƯỜNG HỢP BỘ NGOẠI GIAO

 Chính vì nền giáo dục tạo ra được một nguồn trí thức dồi dào như vậy nên việc sử dụng trí thức ở các cơ quan Nhà nước và trong nền kinh tế cũng có sự cạnh tranh quyết liệt. Nhìn vào tiêu chuẩn tuyển chọn nhân viên văn phòng (thư ký, hành chính) của Bộ Ngoại giao và các nhà ngoại giao trẻ hằng năm và các chính sách sử dụng cán bộ có thể thấy rõ điều này.

Đối với nhân viên văn phòng. Tiêu chuẩn tối thiểu ngoài phải giỏi hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Phần Lan và Thụy Điển, bắt buộc phải thành thạo ít nhất thêm 2 ngoại ngữ trong số năm thứ tiếng: Anh, Pháp, Đức, Nga và Tây Ban Nha. Bên cạnh bằng cấp chính quy, ứng viên phải có kỹ năng xử lý thông tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử xã hội, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Năm 2004, chỉ có 20 được chấp nhận trong số 440 ứng viên thi tuyển. Để được nhận, ứng viên phải qua vòng sơ tuyển, phải vượt qua vòng xét loại hồ sơ, kiểm tra về tâm lý và phỏng vấn. Sau khi được nhận, ứng viên vừa được đào tạo, vừa thử việc trong 6 tháng. Trước khi đi nhiệm kỳ, bắt buộc phải qua các lớp đào tạo về ngôn ngữ và chuyên môn tùy theo nguyện vọng và tính chất công việc.

Đối với cán bộ ngoại giao. Tiêu chuẩn tối thiểu phải tốt nghiệp thạc sỹ, giỏi hai ngôn ngữ chính thức (Phần Lan và Thụy Điển), bắt buộc phải giỏi 1 ngoại ngữ và thành thạo một ngoại ngữ trong số năm thứ tiếng: Anh, Pháp, Đức, Nga và Tây Ban Nha. Ngoài hồ sơ chính thức, các ứng viên được đòi hỏi phải có thêm kinh nghiệm làm việc, tham gia tích cực vào các tổ chức/xã hội dân sự, có bài viết xuất bản, kinh nghiệm làm việc với truyền thông, truyền hình. Những người được tuyển dụng tập trung vào các ngành khoa học xã hội, khoa học chính trị, luật và kinh tế; thường đã có vài năm kinh nghiệm làm việc, trình độ ngoại ngữ rất cao so với mặt bằng chung. Năm 2004, chỉ có 30 người được nhận trong số 850 người thi tuyển. Thông thường hằng năm có từ 15-30 thí sinh được nhận. Các thí sinh phải trải qua bốn vòng là sơ tuyển trên cơ sở hồ sơ đăng ký, kiểm tra kiến thức chung, kiểm tra tâm lý và phỏng vấn; phỏng vấn vòng cuối và kiểm tra trình độ ngoại ngữ. Trước khi làm việc ở các sứ quán bên ngoài, ít nhất phải trải qua hai năm đầu trong Bộ và phải luân chuyển ít nhất hai Vụ trong Bộ (một Vụ ít nhất trong sáu tháng), dự hai khóa đào tạo về quan hệ quốc tế và ngôn ngữ nước sẽ sang làm việc và thử việc thêm 6 tháng tại Sứ quán sở tại.

Cũng giống như việc tuyển chọn nhân sự trong các cơ quan Chính phủ, chính sách sử dụng và tuyển dụng công chức ở Bộ Ngoại giao, thay vì dựa trên chỉ tiêu thì đều trên cơ sở vị trí cần tuyển dụng. Không hiếm trường hợp tuyển nhân sự cán bộ ngoại giao hằng năm vào các vị rất khó như “cố vấn đặc biệt cho Bộ trưởng”. Cách làm chung là mỗi vị trí tuyển dụng đều được công khai về tiêu chuẩn, trách nhiệm cũng như quyền lợi. Người được tuyển dụng được trao quyền độc lập xử lý công việc trong phạm vi mình phụ trách trên cơ sở phối hợp với đồng nghiệp và người phụ trách. Chế độ đãi ngộ, thăng tiến, luân chuyển cán bộ dựa trên hiệu quả và sáng kiến xử lý công việc. Việc một cán bộ tốt ở Bộ được bổ nhiệm vào một chức vụ quan trọng hơn trong Chính phủ là rất thường xuyên và những người trẻ tuổi nhưng nắm giữ những cương vị chủ chốt không phải là trường hợp hiếm thấy ở Phần Lan. Do có đội ngũ trí thức giỏi nên năng lực hội nhập của Phần Lan được đánh giá cao trong các nước châu Âu. Mặc dù mới gia nhập EU từ 1995 nhưng Phần Lan đã hai lần làm chủ tịch của EU (năm 1999 và 2006) và đã hoàn thành rất tốt trọng trách này. Những lãnh đạo của Phần Lan có uy tín cao trong EU, bản thân cựu Tổng thống Phần Lan hiện đang đóng vai trò trung gian hòa giải những vấn đề rất hóc búa ở Trung Đông. Và có lẽ ví dụ điển hình nhất trong việc sử dụng trí thức của Phần Lan là việc Tổng thống Phần Lan bổ nhiệm Bộ trưởng ngoại giao mới vào ngày 4.4.08 vừa qua. Vị tân Bộ trưởng, dù chưa phải là trẻ nhất trong nội các, mới chỉ ở tuổi 40, (trước khi được bổ nhiệm là nghị viên Nghị viện châu Âu, cố vấn đặc biệt cho Chủ tịch Ủy ban châu Âu), là tiến sĩ triết học của trường Đại học Kinh tế London khi ở tuổi 30, và trở thành giáo sư 1 năm sau đó. Và dù mới ở tuổi 40 nhưng vị Tân ngoại trưởng thành thạo 5 ngoại ngữ (Phần Lan, Thụy Điển, Anh, Pháp, Đức) và đã kịp cho ra đời 8 cuốn sách về Liên minh châu Âu, cuốn cuối cùng xuất bản năm 2005 khi mới 37 tuổi.

Nhìn lại bài học của Phần Lan, việc đặt vấn đề “xây dựng đội ngũ trí thức…” nên chăng được điều chỉnh lại “xây dựng nền tảng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam…”. Tính tới chiến lược lâu dài việc phát triển đội ngũ trí thức nên bắt đầu từ việc cầu thị học hỏi những kinh nghiệm quý báu của các nước đi trước để cải tổ triệt để nền giáo dục lạc hậu của nước ta, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên hội nhập mới.

Đúng như những phát biểu của chính giới và hiểu biết chung của Phần Lan, hệ thống giáo dục của Phần Lan là nhân tố quyết định tạo ra đội ngũ trí thức. Xuyên suốt trong lịch sử, tâm thức để xây dựng nền giáo dục đều xuất phát từ ý thức coi trọng tri thức. Để đối phó với những khắc nghiệt của thiên nhiên, địch họa và có chỗ đứng trong thế giới văn minh hiện đại, Phần Lan luôn cho rằng phải xây dựng được nền giáo dục và xã hội dựa vào ba trụ cột chính là kỹ năng, tri thức và sáng tạo. Những mục tiêu chính trị đó là động lực thúc đẩy Phần Lan phải luôn phấn đấu duy trì được một nền giáo dục chất lượng cao và một xã hội học tập suốt đời. Ngay trong sử thi lâu đời nhất của Phần Lan – Kalevala – nhân vật chính không phải là một chiến binh anh hùng mà là một nhà thông thái dùng tri thức để tạo ra của cải và hạnh phúc, dùng lời nói và thơ văn thay cho súng đạn để chiến thắng kẻ thù.

Nhìn lại bài học của Phần Lan, việc đặt vấn đề “xây dựng đội ngũ trí thức…” nên chăng được điều chỉnh lại “xây dựng nền tảng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam…”. Tính tới chiến lược lâu dài việc phát triển đội ngũ trí thức nên bắt đầu từ việc cầu thị học hỏi những kinh nghiệm quý báu của các nước đi trước để cải tổ triệt để nền giáo dục lạc hậu của nước ta, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên hội nhập mới.

Tác giả

(Visited 5 times, 1 visits today)