CCAP – “doanh nghiệp mũ đỏ” trong hệ thống nghiên cứu Trung Quốc
Những năm đầu của thập kỷ 80, sự thần kỳ của Trung Quốc (TQ) bắt đầu với công cuộc cải tổ trong khu vực nông thôn. Sự bùng nổ doanh nghiệp Hương trấn hay còn gọi là các "doanh nghiệp mũ đỏ" (một sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và điều hành tư nhân) hoạt động theo cơ chế thị trường đã giúp nông thôn TQ giải được bài toán dư thừa lao động và thu nhập thấp.
Hai mươi năm sau, những dấu hiệu cho một công cuộc cải cách tương tự trong hệ thống nghiên cứu đang bắt đầu nhen nhóm. Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Nông nghiệp TQ (CCAP) thuộc Viện Hàn lâm TQ đang đi tiên phong trong tiến trình này. “Chúng tôi đang làm những chuyện mà 10 năm nữa sẽ là tất yếu ở đất nước này”, Ji Kun Huang- Giám đốc CCAP khẳng định một cách tự tin. Huang hoàn toàn có cơ sở để chứng tỏ một xu thế không thể đảo ngược.
Những ngày đầu khó khăn
CAAP thời kỳ đầu |
Tốt nghiệp Tiến sĩ ở Đại học Nông lâm UPI (Philipin) năm 1990, trở về nước Huang công tác ở Viện Kinh tế Nông nghiệp thuộc Học Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp). Giai đoạn 1992- 1995, Huang sang làm nghiên cứu cho Viện Lúa Quốc tế- IRRI (Philippin); trường đại học Stanford (Mỹ) và Viện Chính sách Lương thực Quốc tế- IFPRI (Washington DC). Tham gia các hoạt động nghiên cứu ở các Viện và trường danh tiếng đã giúp Huang học hỏi rất nhiều về cơ chế quản lý hiệu quả, những phương pháp phân tích hiện đại, công cụ hữu hiệu hỗ trợ ra quyết định chính sách. Huang nhận thấy những mô hình kinh tế với nhiều kịch bản, lựa chọn chính sách và dự báo sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách có cơ sở khoa học để đưa ra các lựa chọn sát với thực tiễn và có cơ sở khoa học.
Là một người đã nhiều năm làm việc trong hệ thống nghiên cứu trong nước và quốc tế, Huang thấu hiểu một khoảng cách về nghiên cứu giữa trong nước và quốc tế. Một điều có vẻ nghịch lý là, những chuyên gia nước ngoài đến làm nghiên cứu về TQ mang theo những kỹ năng phân tích hiện đại, thường đưa ra những gợi ý chính sách hợp lý hơn cả những chuyên gia trong nước. Tuy nhiên, các chuyên gia này chỉ đến theo thời vụ, theo những đơn đặt hàng của các tổ chức quốc tế hay các chương trình. Hết thời hạn họ lại rời TQ và trở về nước. Rõ ràng những nghiên cứu như vậy không hẳn xuất phát từ bản thân yêu cầu của thực tiễn, của nhu cầu phát triển hay đáp ứng những bức xúc mà Chính phủ đang đặt ra. Ý tưởng về xây dựng một mô hình nghiên cứu quy chuẩn quốc tế ngay trên đất TQ, do chính người TQ thực hiện bắt đầu nhen nhóm trong Huang.
Nếu như thập kỷ 80 chứng kiến sự phá rào của nông dân làm nên sự kiện khoán hộ vĩ đại, mở ra đổi mới của kinh tế Trung Quốc và thập kỷ 90 chứng kiến sự phá rào của tiểu chủ làm nên phong trào công nghiệp Hương trấn, những năm đầu của thế kỷ 21 này có lẽ sẽ chứng kiến sự vượt rào mới của đội ngũ nhân tài trẻ, làm nên cuộc Cách mạng Khoa học công nghệ, đưa Trung Quốc bước vào cửa ngõ của nền kinh tế tri thức. |
Năm 1995, được sự chấp thuận của Học viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, Huang đã thành lập và trở thành Giám đốc CCAP. Trong thời gian này, nhờ có cuộc hội ngộ với Linxiu Zhang- Phó giám đốc CCAP, ý tưởng của Huang về phát triển một viện nghiên cứu độc lập ngày càng được nung nấu. Huang đến từ Hàng Châu và Linxiu đến từ Bắc Kinh; một người tu nghiệp từ Mỹ về và một người từ Anh về đều có chung quyết tâm muốn tập hợp lực lượng xây dựng một cách thức làm khoa học kiểu mới, một mô hình nghiên cứu khác với những gì đã và đang có ở TQ. Tuy nhiên, cả hai nhận thấy dưới cơ chế cứng nhắc, bó buộc của Học viện Khoa học Nông nghiệp TQ, những ý tưởng về một mô hình nghiên cứu mới không thể trở thành hiện thực. Có 3 lý do cơ bản ngăn cản CCAP phát triển: Ở các Viện thuộc Học viện khoa học TQ, người điều hành không có toàn quyền trong lựa chọn tuyển dụng, không có quyền sa thải cán bộ yếu kém; các viện của Học viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp hiện còn dư thừa một lực lượng cán bộ năng lực kém, trở thành gánh nặng cho ngân sách nghiên cứu; Ngoài ra cơ chế quản lý quan liêu đã cản trở công tác nghiên cứu như: các thủ tục đệ trình lên các cấp để phê chuẩn hoạt động nghiên cứu hợp tác với quốc tế mất rất nhiều thời gian.
Được sự ủng hộ của một số lãnh đạo của Học viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, năm 2000, Huang cùng với các đồng nghiệp trẻ thành lập một trung tâm mới (vẫn mang tên CCAP).
Những ngày đầu Huang và Linxiu đã phải tốn rất nhiều công sức để gây dựng cơ sở vật chất và con người. Linxiu kể lại: “Thậm chí Huang đã phải bỏ tiền túi ra để mua sắm các trang thiết bị cho Trung tâm”. Trung tâm đã thực sự cất cánh khi được quỹ FORD tài trợ 200 ngàn USD. Đây không phải là một khoản tiền lớn song cho phép Huang có nguồn vốn đầu tư vào phát triển con người, nhắm tới một tương lai dài hơi. Chỉ hơn hai năm sau, CCAP đã trở thành một Viện nghiên cứu chính sách nổi tiếng trong nước và quốc tế, hoàn thành các nghiên cứu trong các lĩnh vực quan trọng như doanh nghiệp Hương trấn, hội nhập WTO, cung cầu gạo, nước cho sản xuất nông nghiệp… Tại các hội thảo trong nước cũng như quốc tế về TQ, thính giả luôn có ấn tượng về một diễn giả có cặp kính trắng dày, dáng người nhỏ gầy nhưng có một giọng nói tự tin và những ý tưởng sắc bén. Đó chính là Huang- Giám đốc CCAP. Đối với trong nước, CCAP trở thành một địa chỉ tin cậy để các nhà hoạch định chính sách tìm kiếm những kết quả phân tích, dự báo, ra các lựa chọn chính sách và chiến lược cho đất nước. Đối với nước ngoài, CCAP trở thành một đối tác chiến lược trong hoạt động nghiên cứu. CCAP đã trở thành nơi tiếp nhận những dự án viện trợ nghiên cứu quốc tế để hỗ trợ cho các nhu cầu hoạch định chiến lược, chính sách của các cơ quan Chính phủ TQ.
Cơ chế gọn nhẹ, hiệu quả
CAAP ngày nay |
Những năm qua, nền kinh tế TQ đã thực hiện những bước chuyển mình mạnh mẽ từ kế hoạch sang thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh về cơ bản đã hoạt động dựa trên tín hiệu thị trường và ngày càng sôi động, đặc biệt là ở khu vực đô thị. Tuy nhiên, bộ máy hành chính vẫn còn khá trì trệ, đi sau thực tiễn và nhiều khi trở thành rào cản của thực tiễn. Như vậy, vô hình trung, ở TQ tồn tại hai hệ thống đối lập nhau: một bên là khu vực kinh doanh bên ngoài (thu nhập cao, năng động) và một bên là cơ quan Nhà nước (thu nhập thấp, trì trệ). Kết quả là những cán bộ trẻ có năng lực, có ý chí vươn lên bị hút vào các hoạt động kinh doanh chỉ còn lại những cán bộ năng lực yếu, an phận thủ thường vào các cơ quan Nhà nước. Nghịch lý này đã trở thành xu hướng, ngày càng gây ra những hậu quả tiêu cực.
Trong bộ máy Nhà nước, khu vực nghiên cứu lại là nơi bảo thủ và chậm đổi mới nhất. Bộ máy nghiên cứu phình to, nhiều cán bộ chỉ có kiến thức cũ, quen với nếp tư duy cũ nên khi chuyển sang cơ chế thị trường, đòi hỏi ứng dụng phương pháp nghiên cứu mới, công nghệ hiện đại, đã không còn thích hợp, làm việc không hiệu quả. Ở rất nhiều viện nghiên cứu của TQ, cơ chế cũ như: hệ thống lương bổng thấp, chế độ công chức suốt đời đã không kích thích người làm nghiên cứu có động lực để phát huy tài năng, công tác nghiên cứu dựa trên phân bổ hơn là đấu thầu, các sản phẩm nghiên cứu làm ra không có khả năng áp dụng cao, chưa đi theo sát những yêu cầu thực tiễn và hỗ trợ các công tác hoạch định chiến lược và chính sách quốc gia, điều hành vĩ mô, trợ giúp thị trường hoạt động thông suốt.
Trong bối cảnh như vậy, CCAP của Học viện Hàn lâm Khoa học TQ là đơn vị nghiên cứu tiên phong của TQ áp dụng một hệ thống nghiên cứu cạnh tranh. CCAP không cần bất cứ một sự giúp đỡ tài chính nào từ Chính phủ, kể cả lương bổng và các khoản phúc lợi, tuy nhiên đổi lại Huang có được các điều kiện thuận lợi về quản lý và hoạt động tài chính.
Về cơ cấu tổ chức, CCAP có 7 bộ phận nghiên cứu và 3 bộ phận hỗ trợ, chỉ với 13 tiến sỹ và 5 thạc sỹ là thành viên chính thức còn lại hoạt động theo hình thức liên kết. Việc tuyển dụng cán bộ của CCAP phải dựa trên nhu cầu và tính cạnh tranh thực tế tại Trung tâm. Có hai ủy ban tư vấn quốc tế và trong nước tư vấn về các quyết định quan trọng cho sự phát triển của CCAP như: tuyển dụng cán bộ, tăng lương, lập kế hoạch chiến lược. Tuy nhiên, Giám đốc của CCAP là người quyết định cuối cùng đối với mọi chính sách lớn. Các phòng ban của CCAP không cứng nhắc, dập khuôn theo những kế hoạch phát triển định trước mà hết sức mềm dẻo, chủ động thay đổi theo nhu cầu phát triển.
Tuy tổng số cán bộ nghiên cứu chính của CCAP chỉ vẻn vẹn dưới 20 người nhưng hoạt động rất hiệu quả. Chỉ trong vòng hơn 5 năm, CCAP đã xuất bản một số lượng lớn các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế: có 87 bài nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế và 169 bài nghiên cứu trên tạp chí trong nước; 17 cuốn sách xuất bản. |
Tuy tổng số cán bộ nghiên cứu chính của CCAP chỉ vẻn vẹn dưới 20 người nhưng hoạt động rất hiệu quả. Chỉ trong vòng hơn 5 năm, CCAP đã xuất bản một số lượng lớn các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế: có 87 bài nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế và 169 bài nghiên cứu trên tạp chí trong nước; 17 cuốn sách xuất bản.
Giúp việc và phối hợp với các tiến sỹ đóng vai trò nghiên cứu viên đầu đàn là hàng chục nghiên cứu sinh, sinh viên công tác ở Trung tâm từ vài tháng đến một năm dưới dạng vừa học vừa làm. Họ là các tài năng được chọn lọc, có khả năng nghiên cứu và học tập tốt. Trung tâm cấp học bổng, trả lương khá cao cho đội ngũ trợ giúp nghiên cứu này và coi họ như cán bộ của mình.
Kết nối nghiên cứu và hoạch định chính sách
Chiến lược nghiên cứu của CCAP là phân tích và đưa ra các dự báo về kinh tế vĩ mô, thương mại, phát triển của ngành nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc, cung cấp thông tin thích hợp, kịp thời cho các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách. Chiến lược nghiên cứu nhắm vào những mục tiêu: Thực hiện nghiên cứu và phân tích chính sách thực tiễn và kịp thời; tạo ra một môi trường mở và sáng tạo cho các cuộc tranh luận chính sách và xây dựng năng lực nghiên cứu và đào tạo thế hệ nghiên cứu tương lai của TQ.
Những cuộc thảo luận mở cũng là một trong những chiến lược chính của CCAP để khuấy động môi trường tranh luận học thuật và chính trị. CCAP đã mở đều đặn một loạt các diễn đàn tranh luận chính sách nhằm chuyển tải và truyền đạt những khám phá nghiên cứu thành các thông tin có ý nghĩa dành cho các nhà hoạch định chính sách.
Sau 5 năm nỗ lực hoạt động, CCAP đã và đang nổi lên là một trong những địa chỉ tư vấn và tham khảo chính sách uy tín mà cho các nhà hoạch định chính sách TQ. Hiện CCAP là một trong những nơi tư vấn chính sách chính cho Bộ Nông nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ, Ủy ban Kế hoạch Phát triển Nhà nước, Vụ Thống kê Nhà nước, và một số cơ quan trung ương dưới Hội đồng Nhà nước, Bộ Thủy lợi, Nhóm lãnh đạo xóa đói giảm nghèo và các nhà lãnh đạo chính quyền các cấp, các địa phương.
Các nguyên tắc để thành công
Vậy đâu là các nguyên nhân dẫn đến sự thành công của CCAP? Theo cô LinXiu thì những yếu tố nền tảng của CCAP là: tạo nên một mạng lưới nghiên cứu rộng, huy động sức sáng tạo của tri thức, đầu tư vào con người và tạo một cơ chế về thu nhập đảm bảo động lực cho chuyên gia dồn tâm lực vào công tác nghiên cứu.
Về người đã xây dựng nên CCAP TS. Jikun Huang, cá nhân tôi đã biết tên tuổi của anh từ lâu trong các dịp hội thảo quốc tế ở Philippin, Bangkok, Seoul hay ở Hà Nội. Năm ngoái, anh có tham dự hội thảo ở khách sạn Sofitel Hà Nội, sau đó chúng tôi có mời anh bữa ăn tối thân mật. Buối tối hôm đó thật vui vì những câu chuyện chân tình về học thuật và những ý kiến về sự phát triển bền vững của TQ. Anh kể rằng, anh có một kỷ niệm đáng nhớ với Thủ tướng Chu Dung Cơ (trong một cuộc Hội nghị của Chính phủ do ông chủ trì với giới khoa học về phát triển nông nghiệp Trung Quốc). Giữa hội nghị anh đã đứng lên phản đối quan điểm của Thủ tướng, bảo vệ quan điểm riêng về chiến lược phát triển thuỷ lợi. Sau đó, quan điểm này của anh đã được chấp thuận. Bản lĩnh của nhà khoa học làm chúng tôi thấy nể trọng anh hơn. |
Tuy số lượng cán bộ nghiên cứu ít nhưng CCAP đã áp dụng một phương thức làm việc hiệu quả là liên kết và huy động mọi nguồn lực vào công tác nghiên cứu. Khi có các hoạt động nghiên cứu lớn, CAAP sẽ ký hợp đồng ngắn hạn với các chuyên gia, và các sinh viên sắp tốt nghiệp ra trường. Các sinh viên và nghiên cứu sinh được huy động vào các hoạt động nghiên cứu, cùng với các chuyên gia xuống địa phương điều tra, thu thập số liệu, nhập số liệu và chạy mô hình dự báo.
Sự công khai cởi mở về thông tin, công nghệ, công việc… đã khuyến khích các cán bộ chuyên môn học hỏi, chia sẻ kiến thức lẫn nhau để có thể tham gia phối hợp thực hiện những qui trình công nghệ nghiên cứu phức tạp có liên quan đến nhiều đơn vị, nhiều địa phương.
Trung Quốc có hàng trăm ngàn nhân tài được cử ra nước ngoài học tập. Trước đây, 80%- 90% các nhà khoa học sau khi tốt nghiệp thường ở lại làm việc ở nước ngoài. Hiện nay, với các chính sách “chiêu hiền, đãi sĩ” mới, tỷ lệ cán bộ trở về nước công tác đã cao hơn đáng kể. Trở ngại chính gây nên tình trạng chảy máu chất xám nghiêm trọng ở TQ là mức thu nhập quá chênh lệch trong và ngoài nước, chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc, điều kiện sống, cản trở thông tin, khó khăn trong hợp tác và giao tiếp quốc tế. Một thực tế đang tồn tại ở TQ là có một khoảng cách khá lớn giữa thu nhập ở khu vực Nhà nước và kinh doanh bên ngoài, cho dù Chính phủ đã có rất nhiều nỗ lực cải cách hệ thống tiền lương. Thông thường ở Bắc Kinh, lương của cán bộ làm Nhà nước trung bình ở mức 600 USD/tháng, chưa kể các khoản phúc lợi khác như bảo hiểm, tiền hỗ trợ thuê nhà, còn ở khu vực kinh doanh là trên dưới 1000 USD/tháng. Vì vậy, chế độ đãi ngộ của CCAP đã mở ra giải pháp mới, xóa đi khoảng cách giữa làm việc trong Nhà nước và ngoài thị trường, giữa làm việc trong nước và làm ở nước ngoài, tạo động lực đưa người TQ giỏi về nước, gắn công nghệ quốc tế với thực tiễn trong nước.
Những người như Huang có rất nhiều trong các Viện nghiên cứu hay các cơ quan hành chính sự nghiệp ở TQ. Sau khi tu nghiệp nước ngoài về họ có hai lựa chọn: Ở lại các viện nghiên cứu hoặc đi làm cho các tổ chức quốc tế. Trong các cơ quan Nhà nước, dưới cơ chế bó buộc và còn nhiều cản trở, năng lực của họ không được phát huy, không đóng góp hiệu quả vào công cuộc phát triển đất nước. Làm cho các tổ chức quốc tế, tuy hưởng đời sống cao nhưng chỉ làm các dự án hay chương trình dưới sự chỉ đạo và ý tưởng của bên ngoài, không đóng góp hiệu quả cho các nhu cầu thiết thân của thực tế, hỗ trợ công cuộc hoạch định chính sách quốc gia. Trong khi nhu cầu nghiên cứu phục vụ phát triển trong nước rất lớn song khả năng đáp ứng lại thiếu và lãng phí. Nếu như thập kỷ 80 chứng kiến sự phá rào của nông dân làm nên sự kiện khoán hộ vĩ đại, mở ra đổi mới của kinh tế Trung Quốc và thập kỷ 90 chứng kiến sự phá rào của tiểu chủ làm nên phong trào công nghiệp Hương trấn, những năm đầu của thế kỷ 21 này có lẽ sẽ chứng kiến sự vượt rào mới của đội ngũ nhân tài trẻ, làm nên cuộc Cách mạng Khoa học công nghệ, đưa Trung Quốc bước vào cửa ngõ của nền kinh tế tri thức.