Hộ chăn nuôi nhỏ: Tìm lối đi giữa bịt bùng mênh mang

Nếu buộc phải áp dụng các biện pháp chăn nuôi bền vững, không lạm dụng kháng sinh, những người chăn nuôi nhỏ sẽ phải làm gì và trông cậy vào đâu?

Các nông hộ nhỏ nuôi phải đối diện với nhiều bấp bênh. Ảnh: Báo Nông nghiệp và môi trường

“Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Ði trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng” – những câu đầu tiên trong tác phẩm Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp gợi cho người ta cảm giác yên bình, thân thương trong chốn thôn quê, nơi đã nuôi nấng, chở che nhiều gia đình, nhiều thế hệ với những ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những gì diễn ra trong chốn làng quê, trên thực tế lại không hề mơ mộng. Những người nông dân bé nhỏ, nhu mì đã kinh qua các chính sách cải cách ruộng đất, tập thể hóa nông nghiệp, tính công điểm để cuối cùng trở về với khoán hộ gia đình, xây dựng nông thôn mới.

Thế rồi khi đời sống vật chất của xã hội đã bắt đầu khấm khá lên thì ước mơ giản dị làm giàu bằng chính đôi bàn tay mình và trên chính mảnh đất thừa kế cha ông vẫn tồn tại. Hàng thập niên qua, từ Bắc chí Nam, nhiều mô hình nuôi trồng mới đã được giới thiệu và áp dụng ở các làng xã, trong đó không phải không có thành công, từ sáng tạo như nuôi tôm sinh thái, nuôi tôm dưới tán rừng ngập mặn, mô hình tôm lúa, mô hình lúa rươi đến quen thuộc như nuôi cá lồng, nuôi lợn thịt năng suất cao, nuôi gà thương phẩm… Qua một vài vụ ban đầu, nhiều hộ nông dân trúng lớn, không ít người đã trở thành triệu phú vùng quê. Người làm nông có cơ hội đổi đời chăng?

“Lịch sử của nuôi trồng thủy sản là một chuỗi những chiến thắng bệnh dịch luôn tiếp nối bằng các thách thức mới”, câu nói nổi tiếng của nhà sinh thái học Kevin Lafferty (ĐH Santa Barbara, Mỹ) đúng với hầu hết các mô hình chăn nuôi điển hình của người nông dân ở Việt Nam. Thời gian là chứng nhân vĩnh cửu của mọi mô hình và là phép thử của mọi thắng lợi, dù giòn giã đến mấy. Ngay cả mô hình tôm lúa một thời tưởng chừng chỉ toàn hoàn hảo, “thuận thiên”, nay đã lộ ra điểm yếu chí mạng, đó là nuôi tôm dẫn đến sự thiếu bền vững của môi trường, làm giảm quần thể thủy sinh, làm tăng độ mặn của đất, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho nông dân vì khả năng lây lan bệnh của tôm… Trong vòng 10 năm trở lại đây, người nông dân ĐBCSL áp dụng mô hình tôm lúa đều thất bát thu nhập do ảnh hưởng của các sự kiện thời tiết cực đoan.

Không chỉ tôm, các loại hình chăn nuôi khác như gà, lợn ở hai đồng bằng lớn nhất Việt Nam là ĐBSCL và ĐBSH rút cục cũng phải đối diện với khó khăn do dịch bệnh liên tiếp bùng phát và biến đổi khí hậu, bên cạnh những cái thiếu cố hữu: vốn, kỹ thuật mới, nhân lực… Nỗi lo về kháng kháng sinh mới nổi trong vài năm trở lại đây càng khiến cho thực tại thêm phần khó khăn. Có lẽ, chưa cần đến thách thức mới nổi là kháng kháng sinh trên vật nuôi thì các hộ chăn nuôi nhỏ đã đứng trước muôn trùng khó khăn thời cuộc và câu hỏi cố hữu “trồng cây gì, nuôi con gì”, “làm sao thoát cảnh được mùa mất giá”.

Vậy cách nào để những người nông dân duy trì được sinh kế bền vững ngay trên chính mảnh đất cha ông?

Mạo hiểm và bấp bênh

Ảnh: Shutterstock

Câu chuyện “làm ăn lớn” dường như không phù hợp với các nông dân Việt Nam. Sau bốn thập niên Đổi mới được Khoán 10 mở ra thì trong ngành chăn nuôi vẫn tồn tại phổ biến các trang trại quy mô nhỏ, chăn nuôi theo hộ gia đình, ví dụ trang trại nhỏ nuôi lợn chiếm 86,4% còn trang trại nhỏ nuôi gà chiếm 89,62%. ĐBSCL, nơi có diện tích nuôi trồng lớn nhất Việt Nam, trang trại quy mô nhỏ vẫn chiếm khoảng 60% 1. Khi đề cập đến đặc điểm này, TS. Nguyễn Việt Hùng, Viện Chăn nuôi Quốc tế (ILRI) nhận xét “Nếu nhìn lại 15 năm trở về trước thì phần lớn sự đóng góp vào ngành hàng thịt lợn là từ các hộ chăn nuôi nhỏ. Giờ đây phần lớn thịt lợn cho người Việt Nam mình tiêu thụ hằng ngày vẫn được sản xuất chủ yếu từ các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ”.

Do đó, các hộ chăn nuôi nhỏ vẫn là mấu chốt quan trọng trong các kế hoạch giảm sử dụng kháng sinh. Thành bại hay không vẫn là ở họ, thậm chí “tỷ lệ cao các trang trại quy mô nhỏ là một trong những rào cản chính đối với việc thực hiện các quy định về giảm sử dụng kháng sinh ở Việt Nam”, một nhóm các nhà nghiên cứu Việt Nam và quốc tế cho biết 2. Đây không phải là một nhận xét tình cờ bởi trong một nghiên cứu thực địa tại Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Đắk Lắk, Bình Định, Đồng Nai, Đồng Tháp và Tiền Giang vào năm 2018, các nhà nghiên cứu Viện Thú y Quốc gia và đại diện FAO tại Việt Nam đã nhận thấy tỷ lệ các trang trại chăn nuôi lợn và gà ở quy mô công nghiệp thực hiện xét nghiệm chẩn đoán trước khi sử dụng thuốc kháng sinh cao hơn đáng kể so với các trang trại hộ gia đình3. Nguyên nhân là các trang trại quy mô lớn đều tỏ ra chuyên nghiệp trong quản lý, có đội ngũ thú y riêng, có những hợp đồng liên kết với các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăm sóc vật nuôi… Tất cả những điều đó đều thiếu ở các trang trại quy mô nhỏ.

Mô hình chăn nuôi quy mô nhỏ quan trọng như vậy nhưng chúng ta đã biết gì về nó? Liệu các trang trại này có đủ nguồn lực để áp dụng được mô hình chăn nuôi an toàn, ít sử dụng kháng sinh không? Chính sách hạn chế sử dụng kháng sinh có ảnh hưởng đến sinh kế của người nông dân không trong khi chính kháng sinh được họ coi như một dạng quản lý rủi ro có chi phí thấp đối với một hệ sinh thái chăn nuôi nhiều rủi ro? Việc đi tìm câu trả lời hóa ra không đơn giản. Các nhà nghiên cứu OUCRU, ĐH Nông Lâm TPHCM, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Đồng Tháp, ĐH Oxford, ĐH Liverpool đã  tổ chức một thực nghiệm với 203 đàn gà bản địa quy mô nhỏ (100-2.000 con), nuôi tại 102 trang trại tại tỉnh Đồng Tháp từ tháng 10/2016 đến tháng 3/2018 để nghiên cứu các thông số tài chính và kinh tế của các trang trại quy mô nhỏ 4. Trong số chi phí trên toàn đàn từ khi nuôi gà từ ngày tuổi đến khi xuất chuồng thì thức ăn chiếm chi phí lớn nhất với gần 50 % tổng chi phí, còn lại là chi phí các sản phẩm hỗ trợ như vitamin, thiết bị hỗ trợ, thuốc kháng sinh (không tính chi phí lao động).

Các trang trại nhỏ có nguy cơ dễ rơi vào cảnh bấp bênh bởi việc nuôi gia súc gia cầm là hoạt động không bền vững do tính thời vụ của sản xuất, sự dao động giá cả thị trường và sự đe dọa thường xuyên của dịch bệnh.

Dù gặp một số bất lợi như chi phí giống cao do gà con giống mới nở thường được phân phối thông qua một mạng lưới thương lái trung gian phức tạp nhưng người nông dân cũng đã cố gắng bù trừ qua quá trình nuôi, ví dụ đa dạng hóa nguồn thức ăn, không phụ thuộc hoàn toàn vào thức ăn công nghiệp bằng việc bổ sung thức ăn tại chỗ như lúa gạo, rau xanh. Vì vậy, chi phí thức ăn cho gà chỉ chiếm gần 50% trong khi các trang trại tương tự ở Pakistan, chi phí này chiếm 58,1–63,6% và ở Indonesia xấp xỉ 70%. Mặt khác, họ cũng gặp thuận lợi là các tổ chức thú y địa phương thường có kế hoạch khử trùng, làm vệ sinh miễn phí. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là chi phí cho kháng sinh chiếm 9% tổng chi phí đầu vào, cao hơn so với mức 5–6% ở Pakistan và khoảng 1,3% ở Indonesia.

Với những chi phí ấy, kết quả là người nông dân có lãi không? “Tại ĐBSCL, việc nuôi đàn gà thịt quy mô từ 100-2.000 con đôi khi cũng có lãi (trung bình thu hồi 1,24 đồng cho mỗi 1 đồng đầu tư). Lợi nhuận tài chính tạo ra từ các trang trại (trên mỗi con gà nuôi) thường tăng theo quy mô đàn”, các nhà nghiên cứu viết. Tuy nhiên, điều nguy hiểm của mô hình chăn nuôi nhỏ là “vẫn có 40,9% nông dân nuôi gà phải chịu lỗ do quy mô đàn nhỏ và tỷ lệ chết của gà cao, chủ yếu là do mắc các bệnh mà vi khuẩn, virus và ký sinh trùng gây ra”. Đây là lý do mà ước tính thu nhập hằng ngày từ việc nuôi gà (102.000 đồng) thấp hơn đáng kể so với thu nhập từ các nghề khác ở vùng nông thôn ĐBSCL, chẳng hạn như thợ hồ (khoảng 300.000 đồng/một ngày), công nhân nhà máy (khoảng 250.000 đồng một ngày). Do đó, hầu hết các hộ chăn nuôi đều có chiến lược đa dạng hóa thu nhập từ nhiều hoạt động khác nhau ngoài chăn nuôi.

Nhìn tổng thể, các trang trại nhỏ có nguy cơ dễ rơi vào cảnh bấp bênh bởi việc nuôi gia súc gia cầm là hoạt động không bền vững do tính thời vụ của sản xuất, sự dao động giá cả thị trường và sự đe dọa thường xuyên của dịch bệnh. Sau dịch tả lợn châu Phi năm 2019, nhiều nông dân nuôi lợn đã đồng loạt chuyển sang nuôi gà khiến cho giá gà trên thị trường giảm xuống trong khi chính bản thân họ cũng lúng túng do chưa có kinh nghiệm với vật nuôi mới.

Vì vậy, các nhà nghiên cứu đã đi đến nhận xét “Chăn nuôi gà thương phẩm quy mô nhỏ: Một nghề mạo hiểm đối với nông dân ĐBSCL”.

Nông hộ nhỏ không thể tự mình giải quyết vấn đề thị trường. Ảnh: Shutterstock

Chính sách nào phù hợp?

Làm thế nào để hạn chế sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi là một câu hỏi khó với các hộ chăn nuôi nhỏ. “Vật nuôi của chúng ta có hệ miễn dịch rất yếu, nếu cắt bỏ kháng sinh trong khẩu phần thức ăn chăn nuôi cho gia súc non thì ngay lập tức chúng sẽ bị rối loạn tiêu hóa, bị tiêu chảy, như vậy ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất chăn nuôi”, ông Nguyễn Văn Năm, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Invet chia sẻ tại một hội thảo tổ chức vào cuối tháng 10/2024 5.

Vì thế, kháng sinh trở thành một thứ bảo hiểm chi phí thấp giúp họ năng lực chống lại các đợt bùng phát dịch bệnh nguy hiểm có nguy cơ làm chết sạch cả đàn. Hệ quả của nó là “do chi phí thuốc kháng sinh thấp nên thuốc vẫn thường được sử dụng để bù đắp cho việc thực hiện không đầy đủ các biện pháp chăn nuôi khác như an toàn sinh học, vệ sinh và khử trùng, mua gà giống một ngày tuổi chất lượng cao và tư vấn thú y”, các nhà nghiên cứu Anh và Việt Nam nhận xét.

Điểm nút với các hộ chăn nuôi nhỏ là liệu nếu loại bỏ dần kháng sinh, hoặc nói như cách các nhà nghiên cứu là dùng kháng sinh có trách nhiệm, thì họ có tự bù đắp nổi chi phí không? Bởi ngay cả khi có lãi thì mức lợi nhuận họ thu về chỉ là 1,24 đồng, không nhỉnh hơn quá nhiều so với mức đầu tư (1 đồng), nghĩa là họ cũng chỉ “lấy công làm lãi”. Để chắc chắn câu trả lời, mô hình an toàn sinh học đã được triển khai song song với mô hình truyền thống, chủ yếu tập trung vào thay thế kháng sinh, cải thiện an toàn sinh học và hỗ trợ kỹ thuật, bao gồm chương trình đào tạo nông dân về các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm, quản lý chất thải; tổ chức các chuyến thăm thường xuyên và theo lịch trình của chuyên gia thú y để tư vấn về các biện pháp chăn nuôi, các kế hoạch chi tiết để cải thiện sản lượng; cung cấp thuốc thay thế; cải thiện an toàn sinh học tại trang trại bằng cách đầu tư vào một trạm an toàn sinh học 6.

Kết quả thu được là gì? Ở các trang trại nhận được hỗ trợ, lợi nhuận trung bình ở các trang trại này là 6,78 triệu đồng trong khi nếu không nhận được hỗ trợ, lợi nhuận đã giảm xuống, chỉ còn 5,1 triệu đồng đến 5,3 triệu đồng, tùy thuộc vào giá cả loại sản phẩm thay thế thuốc kháng sinh được sử dụng.

Để đảm bảo tính bền vững của các hệ thống trang trại quy mô nhỏ, cần có các dịch vụ tư vấn cho người nông dân khi họ bắt đầu gây đàn mới và hỗ trợ họ trong giai đoạn đầu để giúp khắc phục kinh nghiệm và kỹ năng hạn chế của mình.

Những gì diễn ra trên thực tế cho thấy, việc áp dụng một mô hình an toàn sinh học không phải là tất cả. Dù có lợi ích đáng kể của mô hình mới là giảm chi phí mua thuốc kháng sinh và có gà thịt xuất chuồng an toàn đúng nghĩa nhưng không phải người nông dân nào cũng sẵn sàng áp dụng mô hình này. Tại sao vậy? Bởi trong quá trình triển khai mô hình, nhiều người nhận thấy mình phải tốn nhiều nguồn lực hơn (thời gian làm việc, đầu tư chi phí) nhưng thu nhập vẫn không thay đổi do thương lái không chịu mua gà an toàn với giá cao hơn và chỉ mua với giá thị trường. Phần thưởng thị trường cho một thay đổi quan trọng với họ, trong trường hợp này gần như bằng không trong khi “Để đảm bảo nông nghiệp bền vững, người nuôi trồng phải có khả năng tạo ra lợi nhuận”, một câu nói nổi tiếng từng sáng suốt mách bảo.

Câu chuyện về người nông dân chăn nuôi nhỏ ở ĐBSCL, trên cả hai mô hình chăn nuôi truyền thống và cải thiện an toàn sinh học cho thấy việc thúc đẩy họ chuyển sang mô hình an toàn không hề đơn giản và dễ dàng. Các nhà nghiên cứu nhận thấy, để đạt được lợi ích giảm kháng kháng sinh, mỗi trang trại cần được đầu tư ít nhất 9,1 triệu đồng cộng thêm những kiến thức và công nghệ mới. Rõ ràng, người nông dân không thể tự bơi, họ cần những hỗ trợ tài chính, luật pháp và sự tư vấn của các chuyên gia thú y. “Để đảm bảo tính bền vững của các hệ thống trang trại quy mô nhỏ, cần có các dịch vụ tư vấn cho người nông dân khi họ bắt đầu gây đàn mới và hỗ trợ họ trong giai đoạn đầu để giúp khắc phục kinh nghiệm và kỹ năng hạn chế của mình. Cách tiếp cận có mục tiêu này sẽ hỗ trợ lợi nhuận, đồng thời giảm nguy cơ xuất hiện kháng kháng sinh và bệnh truyền nhiễm từ các trang trại nhỏ”, nhóm các nhà khoa học Việt Nam và Anh đã rút ra kết luận.

Mặt khác, họ cũng không thể tự mình giải quyết bài toán của thị trường, tìm đầu ra cho sản phẩm. Do đó, các nhà nghiên cứu đề xuất thêm “Để nâng cao hiệu quả và tính bền vững của biện pháp can thiệp, có thể thực hiện một số hành động để tăng giá bán, bao gồm việc thực hiện một kế hoạch tiếp thị hiệu quả để thúc đẩy sự công nhận của người tiêu dùng đối với thịt không chứa kháng sinh và được dán nhãn hữu cơ…”.

Tuy nhiên, chuỗi giá trị thịt từ trước đến nay được vận hành trong thế mà phần có tiếng nói là các bên trung gian. “Về mặt phân bố chuỗi giá trị thì người nông dân bao giờ cũng là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Câu chuyện này đúng ở tất cả mọi nơi. Người trực tiếp sản xuất không được bao nhiêu trong khi những người làm thương mại như sản xuất thức ăn chăn nuôi hay khâu trung gian như giết mổ, phân phối… lại được hưởng lợi nhiều hơn cả giá trị của cả chuỗi”, TS. Nguyễn Việt Hùng trao đổi. Đó là lý do mà các nhà nghiên cứu Việt Nam và Anh đề xuất thêm một giải pháp tiềm năng khác là xây dựng sự hợp tác giữa các bên liên quan trong toàn bộ chuỗi giá trị gia cầm, bao gồm các trang trại, tổ chức khuyến nông và khu vực tư nhân. Sự hợp tác này có thể giúp gia tăng khả năng chấp nhận các biện pháp an toàn sinh học tối thiểu dưới sự giám sát chặt chẽ. Các nhóm hợp tác hoặc quan hệ đối tác với các doanh nghiệp chăn nuôi lợn được khuyến khích tham gia vào chuỗi sản phẩm, được hỗ trợ bởi các quy định chặt chẽ từ các cơ quan chính phủ để đảm bảo sản xuất các sản phẩm an toàn khi sử dụng thuốc kháng sinh.

Nếu đúng như cái nhìn của nhà thực vật học Pháp Henri Alain “Cuộc sống trong một trang trại là trường học kiên nhẫn. Bạn không thể vội vã với mùa màng hoặc tạo một con bò trong hai ngày” thì có lẽ, việc thúc đẩy sử dụng kháng sinh có trách nhiệm cũng như vậy.

***

Có lẽ, một câu hỏi sẽ dấy lên sau toàn bộ câu chuyện, đó là tại sao cần phải có chính sách hỗ trợ các hộ chăn nuôi nhỏ? Liệu đó có phải giải pháp “vỗ về” họ không? Câu trả lời là ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy nguồn lương thực thực phẩm toàn cầu thực ra phụ thuộc vào các nông hộ nhỏ ở các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và đánh bắt thủy sản chính. Các nông hộ nhỏ chưa bao giờ đóng vai trò nhỏ hơn. Người ta đã nhận thấy một điều là, số phận các quốc gia gắn liền với năng lực quốc gia đó nuôi nấng người dân của họ. “Với an ninh lương thực, đã đến lúc thừa nhận những lợi ích của việc có những phần nhỏ hơn, nhỏ là tốt. 600 triệu nông dân sản xuất nhỏ trên khắp thế giới, mỗi người tuy chỉ làm lụng trên diện tích đất chưa đến hai hecta, ước tính sản xuất 28-31% tổng sản lượng cây trồng và 30-34% nguồn cung cấp lương thực trên 24% tổng diện tích nông nghiệp”, Jai Shroff, một chuyên gia về phát triển nông nghiệp bền vững và doanh nghiệp nông nghiệp, viết trên trang web của Diễn đàn Kinh tế Thế giới khi giải thích tại sao các nông hộ nhỏ lại là trung tâm của những biện pháp đảm bảo an ninh lương thực mới7.

Từ nhiều năm nay, Tổ chức Nông lương của Liên Hợp Quốc (FAO) đã đề xuất với các chính phủ việc thúc đẩy các tư vấn chính sách khuyến khích khả năng tiếp cận vốn, hàng hóa công, dịch vụ xã hội, công nghệ mới; tăng cường đầu tư, tiếp cận thị trường, cung cấp các dịch vụ và nguồn lực sản xuất…

Với các hộ nông dân, đó cũng là điều kiện cần để họ vượt qua thách thức?□
————————–
1. https://nhachannuoi.vn/ca-nuoc-co-tren-13-00-trang-trai-chan-nuoi/https://nongnghiepmoitruong.vn/chi-7-trang-trai-chan-nuoi-o-dbscl-quy-mo-lon-d397057.html

2.  “Understanding the implementation of antimicrobial resistance policies in Vietnam: a multilayer analysis of the veterinary drug value chain”. Peer Community Journal. 2025

3. “Antimicrobial use in household, semi-industrialized, and industrialized pig and poultry farms in Viet Nam”. Preventive Veterinary Medicine.2021

4. Nghiên cứu trong khuôn khổ Dự án ViParc (Nền tảng về Giảm kháng sinh trong sản xuất gà ở Việt Nam) được thực hiện trong giai đoạn 2016–2019 tập trung vào việc giảm sử dụng kháng sinh tại các trang trại gia cầm quy mô nhỏ ở vùng ĐBSCL.

5. https://nongnghiepmoitruong.vn/mua-khang-sinh-o-viet-nam-de-nhu-mua-bim-bim-d405970.html

6. “Economic assessment of an intervention strategy to reduce antimicrobial usage in small-scale chicken farms in Vietnam”. One Health. 2025.

7. https://www.weforum.org/stories/2022/09/smallholder-farmers-key-achieving-food-security/

* Bài đăng Tia Sáng số 13/2025

Tác giả

(Visited 107 times, 1 visits today)