Kháng kháng sinh: “Đại dịch thầm lặng” trong trại chăn nuôi
Nếu không giảm thiểu được việc dùng kháng sinh trong các trang trại chăn nuôi, rất có thể đến một ngày, một “đại dịch thầm lặng” với những vi khuẩn siêu kháng thuốc (superbug) sẽ sẵn sàng đánh úp chúng ta. Vậy cách nào để chặn nó từ xa?

Câu trả lời dường như đã có sẵn, với một chiến lược ở tầm quốc gia, Chiến lược Quốc gia phòng, chống kháng thuốc tại Việt Nam giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn 2045. Theo chiến lược này thì từ năm 2026 trở đi, kháng sinh sẽ chỉ được dùng để điều trị dự phòng, điều trị bệnh động vật khi vật nuôi được chẩn đoán mắc bệnh và phải theo đơn thuốc của người được phép kê đơn thuốc thú y.
Việc thực thi một chiến lược như vậy trên thực tế có dễ dàng? Câu hỏi này được nêu ra bởi việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi ở các vùng chăn nuôi lớn của Việt Nam đã không còn là chuyện lạ. Theo số liệu thống kê trước năm 2019, ước tính hằng năm ngành chăn nuôi sử dụng xấp xỉ 50 tấn kháng sinh trong các trang trại gia cầm và gần 1.000 tấn kháng sinh trong các trang trại lợn. Khi tập trung vào tìm hiểu tình trạng sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi tại năm tỉnh trọng điểm, Cục Thú y (Bộ NN&PTNT, nay là Bộ NN&MT) đã phát hiện gần 100% trang trại lớn sử dụng kháng sinh để phòng và điều trị bệnh, 68% trang trại lợn sử dụng thức ăn hỗn hợp chứa kháng sinh nhằm phòng bệnh và kích thích tăng trưởng 1.
Kháng sinh, phát hiện đột phá đem lại cho Alexander Fleming giải Nobel Y sinh năm 1945, giờ đã trở thành nguồn cơn của mối đe dọa mới: hai phần ba lượng kháng sinh trên toàn cầu được sử dụng trong nông nghiệp2. Nếu đặt câu chuyện của Việt Nam vào bối cảnh thế giới thì rõ ràng, nhiều thách thức đang được xếp chồng trên con đường thực thi chính sách giảm thiểu việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi.
Muôn trùng vòng lặp
Ước mơ về một bữa cơm đầy đủ dưỡng chất của nhiều gia đình Việt Nam đã thành hiện thực kể từ sau Đổi mới. Khi tầng lớp trung lưu trong xã hội ngày một gia tăng, nhu cầu về thịt cũng không ngừng đặt những cú thúc đẩy ngành chăn nuôi của Việt Nam tiến lên phía trước. Theo số liệu thống kê, từ chỗ chăn nuôi manh mún, nhỏ lẻ, tự cung tự cấp thì nay Việt Nam là một quốc gia có ngành chăn nuôi lợn đứng thứ năm về số lượng con và thứ sáu về sản lượng thịt so với thế giới (năm 2024 chiếm 3% sản lượng toàn cầu). Hiện nay cơ cấu đàn vật nuôi của Việt Nam bao gồm 60-64% là lợn, 28-29% là gia cầm 3. Nếu tính theo chế độ ăn lành mạnh và bền vững mà tổ chức World Wildlife Fund đề xuất, bao gồm bảy nhóm là 1) các cây họ đậu, hạt; 2) bột ngũ cốc; 3) sản phẩm từ sữa; 4) cá và các loại hải sản; 5) trái cây; 6) thịt và sản phẩm từ thịt; 7) rau xanh, thì Việt Nam đã tự chủ được sáu nhóm lương thực, đặc biệt nhóm thứ tư, sáu và bảy4.
Tuy nhiên quá trình các trang trại chăn nuôi lớn nhỏ gia tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu ăn ngon, ăn đủ chất của một xã hội đang phát triển cũng là quá trình mà các trang trại sử dụng kháng sinh cho vật nuôi theo nhiều cách khác nhau. “Trong mỗi chu kỳ chăn nuôi, hầu hết các trang trại chăn nuôi đều sử dụng ít nhất một loại kháng sinh để phòng bệnh hoặc kích thích tăng trưởng. Đặc biệt, một số loại kháng sinh được cho là quan trọng đối với điều trị bệnh ở người cũng được dùng trong chăn nuôi”, TS. Trương Hà Thái, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, từng trả lời qua email vào năm 2020 như vậy.
Để đảm bảo sự tăng trưởng của vật nuôi, các trang trại thường sử dụng thức ăn công nghiệp, từng bị các nhà khoa học phát hiện chứa kháng sinh, có loại chứa “từ hai loại kháng sinh trở lên, tuy hàm lượng thấp không đủ để kích thích tăng trọng, nhưng có thể gây ảnh hưởng không tốt đến cơ thể động vật, đồng thời tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn kháng lại các thuốc trên” như nhận xét của TS. Dương Thị Toan, ĐH Nông lâm Bắc Giang 5. Các đồng nghiệp của chị ở Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford (OUCRU) tại TPHCM, trong một khảo sát 12 trang trại gà và lợn ở Tiền Giang vào năm 2013-2014 đã tìm thấy lần lượt 2 và 13 loại kháng sinh khác nhau trong thức ăn của gà và lợn như Enramycin, chlortetracycline, colistin, amoxicillin, và neomycin… nhưng trên bao bì của 10/11 sản phẩm chỉ ghi chứa một chất kháng sinh6.
Mới vài thập niên trước, những lão nông tri điền thường dùng các bài thuốc dân gian với những loại cây lá vườn nhà như sả, gừng, tỏi… chống lại căn bệnh tụ huyết trùng, phó thương hàn, tiêu chảy ở lợn hay bệnh gà rù, gà toi… trên các đàn nhà nuôi. Tuy nhiên ngày nay, câu chuyện đã hoàn toàn khác. Những phương thuốc chữa trị này đã trở nên gần như vô dụng trước mô hình chăn nuôi quy mô lớn và trong thời gian liên tục ở các trang trại. “Nếu chúng ta để ý thì thấy trước đây, nuôi gia cầm trong một hai mùa thì ai cũng thắng nhưng đến các mùa sau thì người ta mới khốn đốn bởi các mầm bệnh tích tụ, lưu cữu và bùng phát”, một nhà nghiên cứu ở Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam nhận xét.
Việc tồn tại trong một môi trường nhiệt đới gió mùa và đa dạng sinh học như Việt Nam càng đặt thêm áp lực lây nhiễm bệnh cho các trang trại chăn nuôi, bởi “tự khắc sẽ có nhiều chủng vi sinh vật, nhiều những loài động vật trung gian truyền bệnh nên nguy cơ mắc bệnh càng cao” – đó là một trong những lý do khiến những người nông dân buộc phải sử dụng kháng sinh ngày càng nhiều, theo lý giải của TS. Trương Hà Thái. Một nhà phân phối thuốc thú y cũng cho rằng ở Việt Nam “mầm bệnh nhiều, mật độ chăn nuôi dày, điều kiện khí hậu thuận lợi cho vi khuẩn phát triển nên dễ gặp áp lực dịch bệnh” 7.
Tất cả đã hội tụ thành một vòng lặp khép kín mà người nông dân khó bề vượt thoát: càng nhiều đơn hàng của thị trường thì càng nuôi nhiều gia súc, gia cầm, và mật độ càng cao càng dễ bị mắc bệnh, và càng dễ mắc bệnh thì càng phải dùng kháng sinh. Mặc dù người nuôi không phải không có kinh nghiệm chăn nuôi nhưng “kinh nghiệm về quản lý dịch bệnh, quản lý môi trường, sử dụng thuốc trong phòng dịch bệnh thì họ thiếu”, PGS. Trương Đình Hoài, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, nhận xét với báo Khoa học & phát triển năm 2020. Ở đây lại nảy sinh thêm một nghịch lý, đó là “dẫu thiếu kiến thức mà vẫn nuôi nhiều lên, mật độ cao lên thì mức đầu tư kinh tế vào các trang trại của họ rất lớn. Vì vậy họ rất sợ dịch bệnh, một khi đã sợ dịch bệnh thì họ sẽ tìm mọi cách để điều trị dịch bệnh”, anh nói. Đó cũng là lý do mà các trang trại gà ở ĐBSCL đã cho đàn gà dùng thuốc kháng sinh với tỷ lệ cao gấp ba lần so với mức trung bình toàn cầu hoặc cao gấp sáu lần so với một số quốc gia châu Âu 8.
Một vòng lặp khép kín mà người nông dân khó bề vượt thoát: càng nhiều đơn hàng của thị trường thì càng nuôi nhiều gia súc, gia cầm, và mật độ càng cao càng dễ bị mắc bệnh, và càng dễ mắc bệnh thì càng phải dùng kháng sinh.
Thói quen sử dụng thuốc kháng sinh của người nông dân có lẽ cũng không khác mấy thói quen chạy ra hiệu thuốc mua kháng sinh trị ho cho con mình của các ông bố bà mẹ thành thị. “Khi vật nuôi mắc bệnh bỏ ăn hàng loạt, người nông dân thường có tâm lý nôn nóng muốn vật nuôi khỏi nhanh thường thích dùng kháng sinh với liều nặng hơn để rút ngắn chu trình điều trị”, TS. Trương Hà Thái giải thích. Vậy mà “nhiều khi các đại lý bán thuốc có trình độ hiểu biết, điều trị đúng phương pháp, liều lượng một cách từ từ, không gây ảnh hưởng đến vật nuôi thì người ta lại không thích mà chỉ thích những ông kê đơn thật nặng, thuốc hoạt phổ rộng điều trị theo kiểu ‘bao vây’, sao cho vật nuôi mau khỏi”. Thậm chí, họ còn nghĩ khi sử dụng kháng sinh liều nhỏ sẽ có tác dụng “phòng bệnh hơn chữa bệnh” hoặc kích thích tăng trưởng cho vật nuôi. Theo nghiên cứu cách đây hơn 10 năm, 84% việc sử dụng thuốc là để phòng ngừa chứ không phải điều trị bệnh 9. Nếp nghĩ này khiến cho lượng thuốc kháng sinh dùng trong chăn nuôi ở Việt Nam chiếm 71,7% trong khi kháng sinh dùng cho người chỉ chiếm 28,3%10.
Cũng tương tự những điều người ta thấy ở nhân y, việc bán thuốc kháng sinh ở các cửa hàng thú y khá thoải mái. Theo một nghiên cứu về các yếu tố thúc đẩy việc sử dụng kháng sinh tại một tỉnh miền núi phía Bắc, tại gần 90% các cửa hàng được khảo sát, người nông dân đến mua thuốc kháng sinh chưa bao giờ hoặc hiếm có tư vấn của chuyên gia thú y trước khi đến mua. Do đó, họ hiếm khi hoặc không bao giờ mang theo đơn thuốc của bác sĩ thú y mua thuốc kháng sinh mà chỉ tin tưởng vào người bán chẩn đoán bệnh cho vật nuôi và cách sử dụng thuốc kháng sinh. Mặt khác, một nửa số người làm việc tại hiệu thuốc hiếm khi hoặc không bao giờ yêu cầu đơn thuốc trước khi bán thuốc kháng sinh. Một điều trớ trêu là nếu không có chẩn đoán cụ thể, hiệu thuốc có thể dễ dàng chọn một loại kháng sinh phổ rộng có thể điều trị nhiều loại mầm bệnh11.
Ở đây xuất hiện một nghịch lý khác càng làm khép chặt vòng lặp: nhiều trường hợp, người quyết định kháng sinh liều cao không phải là chủ trang trại mà chính là các cửa hàng, đại lý thuốc thú y. “Các đại lý bán thuốc thú y thường bán theo doanh số, chạy theo lợi nhuận nên thích bán thuốc liều cao cho nông dân”, một nhà nghiên cứu giấu tên nói. Thực tế cho thấy, thuốc kháng sinh là loại thuốc được bán phổ biến nhất tại các cửa hàng này và trở thành nguồn thu nhập quan trọng. Vì vậy có lý khi tin rằng, điều này có thể tạo ra xung đột giữa lợi ích bán hàng và thực hành sử dụng kháng sinh có trách nhiệm, nhóm các nhà khoa học ở Viện Chăn nuôi Quốc gia, Viện Chăn nuôi Quốc tế, ĐH Khoa học Nông nghiệp Thụy Điển, ĐH Uppsala đánh giá5.

Những cỗ máy kháng kháng sinh
Có lẽ, dù không ai muốn thừa nhận nhưng việc sử dụng kháng sinh đã trở thành một phần không thể thiếu trong chăn nuôi trang trại. Quá trình ấy đã biến những vật nuôi là nguồn cung cấp thịt, trứng, giò chả… cho bữa ăn hằng ngày của chúng ta trở thành cỗ máy sản xuất vật liệu kháng kháng sinh. Vi khuẩn, chứ không phải động vật hoặc con người, trở nên kháng thuốc. Tại sao lại như vậy? Bởi các loại vi khuẩn gây bệnh trên vật nuôi, sau khi chết đi sống lại dưới sức tấn công của các loại kháng sinh, đã buộc phải tiến hóa, biến đổi vật chất di truyền của chính mình để tồn tại.
Quy luật sinh tồn trong hệ sinh thái trang trại ấy đã được ghi lại bằng những gene kháng thuốc ngày một tích tụ trong bộ gene của các loài vi khuẩn, biến chúng từ những kẻ xâm nhập, ban đầu chẳng mấy ghê gớm, bỗng thành mối đe dọa hàng loạt trang trại. Các gene kháng thuốc này ở vi khuẩn sau đó có thể được truyền cho thế hệ vi khuẩn tiếp theo thông qua quá trình chuyển gene theo chiều dọc (từ thế hệ này sang thế hệ khác) hoặc theo chiều ngang (từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác thông qua các “đảo gene” kháng plasmid, loại phân tử DNA vòng thường chứa các gene hay nhóm gene mang lại ưu thế chọn lọc cho tế bào vi khuẩn chứa nó12.
Sự lan truyền vi khuẩn kháng trong các trang trại đôi khi rất đơn giản, đó là từ gà lợn bố mẹ sang gà lợn con cái hoặc từ chuồng nuôi này sang chuồng nuôi khác, trang trại này sang trang trại khác nếu người nuôi không áp dụng tốt các biện pháp an toàn sinh học. Và sự lây lan như vậy đôi khi rất nhanh chóng, ví dụ các nhà nghiên cứu OUCRU từng phát hiện vi khuẩn E. coli kháng colistin trên các gà con một ngày tuổi dương tính do lây truyền từ đàn gà giống và các chủng kháng colistin có thể sống tốt ở mức nhiệt độ từ 36 đến 37,8 độ trong quá trình ấp trứng6. “Tôi thấy vi khuẩn ngày càng thích ứng để gây bệnh cho vật nuôi. Độc lực của nó phụ thuộc vào hai yếu tố: thứ nhất là gene độc, thứ hai là mật độ vi khuẩn trong đó gene độc có thể được tiếp thu và lấy từ môi trường vào hoặc lấy từ các sinh vật xung quanh, tạo ra những gene độc lực mới và tăng khả năng gây bệnh”, PGS. Trương Đình Hoài nói. Đây cũng là lý do mà theo TS. Trương Hà Thái, “nhiều khi loại kháng sinh mới đưa ra chỉ được độ khoảng vài tháng hoặc vài năm là đã bị hầu hết hoặc một số loại vi khuẩn kháng lại rất nhanh”.
Việc sử dụng kháng sinh đã trở thành một phần không thể thiếu trong chăn nuôi trang trại. Quá trình ấy đã biến những vật nuôi là nguồn cung cấp thịt, trứng, giò chả… cho bữa ăn hằng ngày của chúng ta trở thành cỗ máy sản xuất vật liệu kháng kháng sinh.
Người ta vẫn thường coi các nhà khoa học ở trong “tháp ngà học thuật” nhưng thực ra, từ lâu họ đã âm thầm phác dựng từng góc nhỏ trong bức tranh kháng kháng sinh ở Việt Nam từ những thực địa ở các trang trại chăn nuôi. Cách đây cả thập kỷ, các nhà nghiên cứu Việt Nam và Anh ở OUCRU đã phân lập và phát hiện được E. coli trong các trang trại nuôi lợn và gà ở Mỹ Tho, Tiền Giang với tỷ lệ kháng cao đối với các thuốc kháng khuẩn có tầm quan trọng sống còn, chẳng hạn như thuốc kháng sinh dòng cuối colistin (một loại kháng sinh được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng nặng, đặc biệt là những trường hợp đã kháng các loại kháng sinh khác), ciprofloxacin (loại kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm khuẩn khác nhau, bao gồm nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiết niệu, tiêu hóa, da, xương, khớp…) và gentamicin (loại kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn gây ra, bao gồm cả nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiết niệu, da, xương khớp, và nhiễm khuẩn huyết). Việc tìm ra các cơ chế di truyền cơ bản trên các vi khuẩn giúp các nhà nghiên cứu xác định việc sử dụng các loại thuốc này là nguyên nhân chính của tình trạng kháng kháng sinh 6.
Các vi khuẩn giáp trụ đầy người ngày một sinh sôi nảy nở, có mặt khắp mọi nơi. Khi người nông dân dùng càng nhiều loại kháng sinh, họ không biết rằng đó là một động lực thúc đẩy vi khuẩn tiến hóa theo hướng độc hại. Những sinh vật đơn bào với cấu trúc đơn giản này có thể linh hoạt tạo ra vô số thay đổi di truyền, với những tỷ lệ đột biến dường như vô tận, khiến chúng mau chóng trở thành siêu kháng thuốc, siêu đa kháng (superbug). TS. Trương Hà Thái xác nhận qua email: “Các loại vi khuẩn phân lập được như E. coli, Salmonella, Staphylococcus aureus đều có tỷ lệ kháng kháng sinh rất cao. Hầu hết các loại vi khuẩn đều có khả năng kháng lại ít nhất một loại kháng sinh kiểm tra; có những chủng vi khuẩn đa kháng ngày càng phổ biến (kháng 3-5, thậm chí 7-8 loại kháng sinh cùng lúc)”.
Những cái tên Latinh không đủ sức gợi cảm xúc gì với đông đảo mọi người nhưng đây chính là nguồn cơn gây bệnh, ví dụ Staphylococcus aureus, hay còn được gọi là tụ cầu vàng, là nỗi khiếp sợ của các trang trại lợn vì nó là nguyên nhân của bệnh viêm loét da rỉ dịch, có thể khởi phát đột ngột với tỷ lệ mắc từ 10% – 90% và tỷ lệ tử vong 5% – 90% ở lợn con 13. Nếu đi qua các trang trại, nhìn các con lợn ụt ịt thích cọ mũi vào tay người cho ăn có vẻ vô hại, không ai tưởng tượng rằng trong dịch nhầy ở cái mũi kia có thể là chốn nương náu của tụ cầu vàng, thậm chí tụ cầu vàng kháng methicillin (MRSA). Khi khảo sát các trang trại nuôi lợn quy mô nhỏ ở miền Trung, các nhà nghiên cứu ĐH Huế đã phát hiện ra 63,9% số mẫu từ lợn có biểu hiện chán ăn, sốt, viêm da, khó thở, viêm phổi, viêm khớp… hoặc không khỏe mạnh chứa tụ cầu vàng có khả năng kháng hai hoặc nhiều kháng sinh, nhiều chủng kháng tới 10 loại 14.

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn với các nhà nghiên cứu về tình hình kháng kháng sinh trong chăn nuôi, một cán bộ đã thừa nhận “Tôi cũng không rõ một cách chính xác tình trạng thực tế là gì, mặc dù có nhiều dự án nghiên cứu về kháng kháng sinh đang diễn ra… Trên thực tế, tôi không tin là chúng tôi lại có được một bức tranh đầy đủ trên phạm vi toàn quốc [về kháng kháng sinh]”.
Ngay khi chưa có được một bức tranh đầy đủ thì lo ngại đã hiện hữu. Những sinh vật nhờn thuốc này không chỉ reo rắc mối đe dọa lên các trại chăn nuôi mà còn cho chính con người bởi 70% bệnh tật ở người là từ các động vật có xương sống và phần nhiều là gia súc, vật nuôi. Sự chia sẻ nhiều loài vi khuẩn gây bệnh chung giữa người và vật khiến cho câu chuyện trở lên phức tạp, bởi “những vi khuẩn kháng kháng sinh có thể lây nhiễm cho động vật và con người, và các bệnh nhiễm trùng mà chúng gây ra khó điều trị hơn so với các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn không kháng thuốc gây ra”, các nhà nghiên cứu ĐH Huế cho biết. Câu chuyện lây nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh từ vật nuôi sang người không còn là xa lạ. Tại hội thảo về Một sức khỏe (One Health) do Cơ quan truyền thông của Bộ Ngoại giao Pháp (CFI) tổ chức vào tháng 5/2024, TS. Sonia Lewycka (OUCRU) cho biết, khi khảo sát 1.160 trại chăn nuôi ở Nam Định, một trong những thủ phủ nuôi gà, lợn ở miền Bắc, OUCRU đã phát hiện ra 55% vật nuôi chứa vi khuẩn gram âm sinh beta-lactamase phổ rộng (ESBLs) có thể kháng lại rất nhiều các thuốc kháng sinh phổ biến, 68% vật nuôi có vi khuẩn kháng kháng sinh dòng cuối colistin trong khi 80% trẻ em dưới năm tuổi thuộc 2.600 hộ gia đình nhiễm ESBL, 63% em có vi khuẩn kháng colistin đường ruột.
Trong lịch sử ngành chăn nuôi thế giới, trường hợp nhiễm tụ cầu vàng kháng methicillin đầu tiên được phát hiện ở Hà Lan vào năm 2005, trên những con lợn không biểu hiện triệu chứng bệnh nhưng lại chứa một đội quân hùng hậu mang mầm bệnh trong mũi, trên da và có thể trong ruột. Tụ cầu vàng kháng methicillin phát tán trong môi trường trang trại và cả lò giết mổ, khiến cho những người làm trong trang trại và gia đình họ tăng nguy cơ rủi ro mạng sống lên 23% và hơn 760 lần so với những người khác. Từ đó đến nay, tụ cầu vàng kháng methicillin đã lan khắp thế giới bằng nhiều con đường và cách đây hơn một thập niên, các nhà nghiên cứu OUCRU đã phát hiện tụ cầu vàng kháng thuốc ở trang trại lợn ĐBSCL15. Bất chấp nhiều hệ thống chuồng trại đã bắt đầu áp dụng tự động hóa trong chăn nuôi nhưng “ở Việt Nam, nhu cầu về nhân lực vẫn còn nhiều, tức là một chuồng vài nghìn con gà có khi phải cần ít nhất một công nhân, vài nghìn con lợn có khi phải cần năm đến sáu công nhân, tự khắc sự tiếp xúc giữa con người với động vật tạo ra cái gọi là trung gian truyền bệnh, vector truyền bệnh sẽ xảy ra, bệnh sẽ càng nhiều thôi”, một nhà nghiên cứu nhận xét.
Trong số 1.500 loài vi khuẩn có thể gây bệnh cho người, không phải bất cứ loài nào cũng mang gene kháng thuốc nhưng một khi những vi khuẩn chứa độc lực này xâm nhập vào cơ thể con người, ví dụ như tụ cầu vàng – tác nhân gây ra nhiều bệnh tật ở người như nhiễm trùng da, áp xe, ngộ độc thực phẩm, hội chứng sốc nhiễm độc, nhiễm trùng huyết và viêm phổi – và kháng nhiều loại kháng sinh thì lúc đó thảm họa mới đột sinh. “Nếu bệnh viện có thể không có sẵn thuốc mẫn cảm với những loại mầm bệnh đó, mà lại chỉ có thuốc bị các loại vi khuẩn này kháng rồi, thì nguy cơ tử vong ở người không may bị nhiễm những vi khuẩn kháng kháng sinh trong chăn nuôi sẽ rất cao, hoặc là chi phí điều trị sẽ lớn, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng”, TS. Trương Hà Thái giải thích.
Các vi khuẩn kháng kháng sinh có thể lây nhiễm cho động vật và con người, và các bệnh nhiễm trùng mà chúng gây ra khó điều trị hơn so với các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn không kháng thuốc gây ra.
Trong hội thảo Một sức khỏe tháng 5/2024, TS. Phạm Đức Phúc (Trung tâm Nghiên cứu Y tế công cộng và Hệ sinh thái, ĐH Y tế công cộng) không hề khoa trương khi nói rằng “Kháng kháng sinh là đại dịch thầm lặng vì hầu hết chúng ta không nhìn thấy, không biết được sự nảy nở âm thầm của các vi khuẩn kháng kháng sinh trong đó. Có khi chúng ta ăn thức ăn có dư lượng kháng sinh, có khi chúng ta mắc bệnh do vi khuẩn mang gene kháng thuốc có trong môi trường gây ra… Nếu như vô hình trung chúng ta nhiễm vi khuẩn mang gene kháng thuốc, thậm chí kháng đa thuốc, thì sẽ khó hoặc không có thuốc để điều trị”.
Mặc dù tạm gác câu chuyện dư lượng kháng sinh trong thực phẩm nhưng chỉ nguyên câu chuyện vi khuẩn kháng kháng sinh đã đủ dấy lên nỗi lo ngại.
Lối thoát cho kháng kháng sinh

Mạng lưới chằng chịt những mối quan hệ phức tạp của vấn đề sử dụng thuốc kháng sinh ở các trang trại đặt nhiều thách thức ở những quốc gia thu nhập trung bình và thấp, trong đó có Việt Nam. Chuỗi giá trị thuốc thú y không chỉ bao hàm người nông dân và các cửa hàng thú y, họ chỉ là những nấc cuối cùng trong một chuỗi kéo dài với sự tham gia của nhiều tầng nấc khác nhau ở các lĩnh vực công và tư, cấp Trung ương và địa phương, các lĩnh vực ngành nghề sản xuất thức ăn chăn nuôi, thú y… Tất cả cùng vận hành dưới những quy định và hướng dẫn của các loại văn bản quy phạm pháp luật như Luật Thú y, Luật Chăn nuôi, các nghị định, thông tư… “Các quy định này là một cách khả thi để giảm sử dụng thuốc kháng sinh nhưng phải mất 5-10 năm để nông dân thích nghi. Chính phủ hy vọng sẽ đạt được kết quả trong 1-2 năm, nhưng điều đó là không thể, sẽ mất nhiều thời gian để nâng cao nhận thức của nông dân”, một cán bộ dịch vụ thú y địa phương nói với các nhà nghiên cứu, còn một nông dân có trang trại quy mô nhỏ thì chia sẻ “Luật này không thể áp dụng trong thực tế khi gà bị bệnh; tôi tự mua thuốc thay vì chờ đơn thuốc của bác sĩ thú y” 7.
Thực tế này cho thấy, mục tiêu giảm sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi rõ ràng không thể chỉ dừng lại ở việc kêu gọi người nông dân phải tự nâng cao nhận thức mà “các bên phải ngồi với nhau, nhà quản lý, chuyên gia và hộ nông dân phải có vai trò trong quá trình quản lý dịch bệnh thì mới hiệu quả. Bởi các bên cùng có lợi thì quản lý dịch bệnh mới hiệu quả hơn, chứ nếu một chiều thì sẽ vất vả cho nông dân và họ cũng chán ngay”, một nhà nghiên cứu nhiều kinh nghiệm nói. Bởi những điều anh nhìn thấy trong quá trình xuống địa phương là “dịch bệnh cần thực địa mà nhà quản lý nhiều khi không nắm được, vì các hộ có vật nuôi bị bệnh tự mua thuốc về trị, mà không trị được thì người ta mang đi bán, ai mà quản lý được. Nhiều khi việc quản lý dịch rời rạc quá, dân thì bối rối, vật nuôi bị bệnh không biết kêu ai, chỉ kêu mấy ông bán thuốc với bán cám thôi”.
Những thay đổi trong hệ thống quản lý dịch bệnh trong nhiều năm trở lại đây khiến cho việc giám sát, hỗ trợ người nông dân ở làng xã lại càng thiếu hiệu quả. Một trong số đó là việc sáp nhập các trạm thú y cấp huyện vào trung tâm dịch vụ nông nghiệp cùng với khuyến nông, bảo vệ thực vật, đồng thời tinh giản biên chế, cắt giảm cán bộ thú y cấp xã khiến cho việc giám sát dịch bệnh ở cơ sở không chỉ khó khăn mà còn khó quản lý được tình trạng sử dụng kháng sinh trong các trại chăn nuôi 16. Do đó, việc giữ ổn định đội ngũ thú y cơ sở và tăng cường năng lực cho đội ngũ này cũng như một số phòng thí nghiệm vùng sẽ là yếu tố cốt lõi. “Hiện nay Việt Nam có một số vấn đề là các phòng thí nghiệm hoạt động nhưng hiệu quả chưa cao, thời gian phân tích ra kết quả quá lâu trong khi người nông dân muốn có kết quả nhanh để còn điều trị. Sốt ruột lắm, nhưng các phòng thí nghiệm làm lâu lắm, chần chừ mãi 2-3 ngày sau chưa làm”, PGS. Trương Đình Hoài nhận xét. Mặt khác, phòng xét nghiệm cho kết quả để xác định có bệnh hay không, bệnh như thế nào nhưng không có điều kiện hướng dẫn cho người nuôi thì cuối cùng họ vẫn loay hoay. “Do vậy, phòng thí nghiệm phải có năng lực xét nghiệm nhưng cũng phải có chuyên môn thực địa để hỗ trợ họ”, anh nói.
Một sức khỏe có thể giúp giải quyết toàn bộ vấn đề kiểm soát bệnh tật – từ phòng ngừa đến phát hiện, chuẩn bị, ứng phó và quản lý, có thể được áp dụng ở cấp cộng đồng, cấp vùng, cấp quốc gia, cấp khu vực và toàn cầu dựa trên sự quản lý, hợp tác và phối hợp hiệu quả và sự chia sẻ.
Tuy nhiên, cách làm này vẫn còn chưa đủ để đối phó với sự phức tạp của kháng kháng sinh trong các trại chăn nuôi, nơi được kỳ vọng cung cấp thực phẩm lành mạnh và bền vững cho mọi người cũng như là nguồn sinh kế quan trọng cho những hộ nông dân nhỏ. TS. Phạm Đức Phúc, trong nhiều cuộc trao đổi với Tia Sáng, đã nhắc đến Một sức Khỏe như một giải pháp quy tụ “các bên ngồi với nhau, nhà quản lý, chuyên gia và hộ nông dân phải có vai trò trong quá trình quản lý dịch bệnh”. Về bản chất, Một sức Khỏe là một cách tiếp cận tích hợp, thống nhất nhằm mục đích cân bằng và tối ưu hóa bền vững sức khỏe của con người, động vật và hệ sinh thái. Sự hợp tác giữa các lĩnh vực và chuyên ngành sẽ góp phần bảo vệ sức khỏe, giải quyết các thách thức về sức khỏe đồng thời thúc đẩy sức khỏe và tính toàn vẹn của hệ sinh thái. Bằng cách liên kết con người, động vật và môi trường, Một sức Khỏe có thể giúp giải quyết toàn bộ vấn đề kiểm soát bệnh tật – từ phòng ngừa đến phát hiện, chuẩn bị, ứng phó và quản lý, có thể được áp dụng ở cấp cộng đồng, cấp vùng, cấp quốc gia, cấp khu vực và toàn cầu dựa trên sự quản lý, hợp tác và phối hợp hiệu quả và sự chia sẻ.
Thật khó có được sự thay đổi ngoạn mục trong vòng một, hai năm như kỳ vọng của chính sách, và cũng thật khó phát huy tác dụng của One Health nếu như trong các kế hoạch giám sát không tính đến sự tham gia của tất cả cách ngành liên quan cũng như không tính đến vai trò của người dân ngay từ giai đoạn thiết kế. “Để đạt được sự tham gia đa ngành thành công, cần phải xây dựng được lòng tin, tính minh bạch, sự đại diện bình đẳng và sự đồng thuận giữa tất cả các ngành có liên quan”, các nhà nghiên cứu về chuỗi giá trị thịt lợn ở ILRI đề xuất17.
Phải chăng đây mới là điều khó nhất phải vượt qua! □
————————————————
2. https://www.saveourantibiotics.org/the-issue/antibiotic-overuse-in-livestock-farming/
4 “Gap between national food production and food-based dietary guidance highlights lack of national self-sufficiency”. Nature Food. 2025
5. https://tapchi.vnua.edu.vn/wp-content/uploads/old/492015-TC%20so5.2015.4.pdf
6. “Use of Colistin and Other Critical Antimicrobials on Pig and Chicken Farms in Southern Vietnam and Its Association with Resistance in Commensal Escherichia coli Bacteria”. Applied and Environmental Microbiology.2016
7. “Understanding the implementation of antimicrobial resistance policies in Vietnam: a multilayer analysis of the veterinary drug value chain”. Peer Community Journal (2025)
8. “Antimicrobial resistance in commensal Escherichia coli from humans and chickens in the Mekong Delta of Vietnam is driven by antimicrobial usage and potential cross-species transmission”. JAC-Antimicrobial Resistance, 2022; “Antimicrobial use in household, semi-industrialized, and industrialized pig and poultry farms in Viet Nam”. Preventive Veterinary Medicine. 2021
9. “Antimicrobial Usage in Chicken Production in the Mekong Delta of Vietnam”. Zoonoses and Public Health.2014
10. “An estimation of total antimicrobial usage in humans and animals in Vietnam”. Antimicrobial Resistance & Infection Control. 2020.
11. “Understanding veterinary drug shop workers’ knowledge and practices to identify drivers of antibiotic use in Vietnamese livestock farms”. Veterinary Medicine and Science.
12. “Antimicrobial drug use in food-producing animals and associated human health risks: what, and how strong, is the evidence?”. BMC Veterinary Research. 2017
14. “The role of veterinary drug use in driving antimicrobial resistance of Staphylococcus aureus isolates in smallholder swine farms in Central Vietnam”. Open Veterinary Journal. 2025
15. “An Investigation of the Carriage Rate of Methicillin-Resistant Staphylococcus Aureus in Pigs in the Western Province of Vietnam”. Journal of Biomimetics, Biomaterials and Tissue Engineering. 2011
16. https://nongnghiepmoitruong.vn/video/thu-y-co-so-o-dbscl-vua-thieu-con-chong-cheo-tv397642.html; https://nongnghiepmoitruong.vn/lo-dut-gay-he-thong-thu-y-bai-1-da-mong-nay-lai-nguy-co-hong-d756061.html
17. “The challenges of investigating antimicrobial resistance in Vietnam – what benefits does a One Health approach offer the animal and human health sectors?”. BMC Public Health. 2020.
* Bài đã đăng Tia Sáng số 13/2025