Khoa học và tôn giáo
Khoa học chỉ nên giới hạn tham vọng của mình trong việc mô tả lại những gì ta quan sát được; tôn giáo nên tự giới hạn khao khát của nó trong việc gửi đến con người những thông điệp về cách đối nhân xử thế và những uẩn khúc đằng sau nó. Đó là nền tảng chung mà các nhà khoa học và các nhà thần học nên nỗ lực đạt được để có thể cùng đối thoại.

Mike Huckabee, đại sứ Mỹ tại Israel, một mục sư tại một nhà thờ thuộc giáo hội Baptist Nam Phương, một tín đồ của trường phái phúc âm, cựu thống đốc bang Arkansas và người dẫn chương trình truyền hình trên kênh Fox News, gần đây đăng tải một tin nhắn được Tổng thống Donald Trump share lại để rồi sau đó lan truyền nhanh khủng khiếp, nói rằng Chúa đã cứu Trump vào mùa hè năm ngoái trong vụ ám sát ông bất thành, và ông tin rằng Trump sẽ chỉ lắng nghe một tiếng gọi duy nhất, tiếng gọi của Chúa, nhấn mạnh niềm tin của những người da trắng theo trường phái phúc âm vốn cho rằng Trump là “Người được chọn”
Những thập kỉ gần đây chứng kiến sự bùng nổ của những kẻ tiên tri tuyên bố mình chứng kiến hình bóng của Đức mẹ Đồng Trinh Mary, mẹ của Chúa trong các nhà thờ Ki-tô giáo. Hình bóng này ngày càng nói tiếng Anh nhiều hơn, và càng ngày càng phát âm giọng Mỹ: có 7% những trường hợp tự nhận như vậy ở những năm 60 là đến từ Mỹ, sau đó tăng lên 14% vào những năm 70, 25% vào những năm 90 và ngày nay con số đó là 50%.
Tôi có thể trích dẫn một loạt các ví dụ tương tự, đưa đến một hình ảnh xấu xí của thế kỉ 21 vốn đang ca tụng hết lời sự tiến bộ của khoa học. Nhưng như thế sẽ vừa là cao ngạo và vừa hẹp hòi. Cao ngạo bởi vì nó bỏ qua sự phức tạp trong mối xung đột giữa tôn giáo và khoa học. Và, quan trọng hơn, hẹp hòi bởi nó gạt đi vai trò to lớn của tôn giáo trong việc định hình số phận của con người. Hãy để tôi nói qua về hai ý này dưới đây.
Khổng Tử, Jesus, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho mọi người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy. – Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ở bề mặt, khoa học, hay tri thức phổ quát, có vẻ xung đột hiển nhiên với tôn giáo: những câu chuyện truyền miệng nói với chúng ta về thiên nhiên, về cách tổ chức và sự tiến hóa của chúng, là cổ tích và truyền thuyết mà khoa học không đời nào chấp nhận là tin cậy. Nếu cuộc tranh cãi cứ leo thang theo hướng như vậy, thì chẳng còn gì để nói. Tuy vậy, còn nhiều thứ ẩn sâu. Phổ biến nhất là nhận định cho rằng khoa học cho chúng ta biết thế giới vận hành như thế nào, nhưng không nói được cho chúng ta tại sao nó tồn tại. Khoa học và tri thức là thứ bị giam cầm trong một vòng tròn; chúng chỉ có thể nói với chúng ta những gì dựa trên các khái niệm mà nó tự đặt ra để mô tả lại cái nó thu thập được. Khoa học, để lại cho chúng ta một bí ẩn to lớn mà nó không thể nào khai mở: Tại sao lại tồn tại một thứ gì đó chứ không phải là thinh không? Đấy cũng chỉ là một cách để nói, bởi bí ẩn này sâu sắc tới mức ta không thể mô tả sao cho rõ ràng. Khi chúng ta hỏi “tại sao”, ta kỳ vọng rằng phải có một lí do cho một thứ nào đó tồn tại, nhưng “lí do” là một khái niệm mà khoa học và tri thức sáng tạo ra, và tất cả bị khóa trong một vòng luẩn quẩn. Khi chúng ta nói “thinh không”, chúng ta cũng phải rất khó khăn mới hiểu được nó nghĩa là gì: “thinh không” không phải là một không gian trống rỗng; nó thậm chí còn không có không gian; nó không phải là một tích tắc, nó là không hề có thời gian; nó ngầm định rằng không có ai ở đó để chứng kiến nó thật sự là gì. Điều chúng ta thật sự biết, chỉ là “một thứ gì đó”. Nó bao gồm tất cả những gì chúng ta biết, những gì chúng ta cảm nhận được, những gì chúng ta mơ thấy, những gì khiến chúng ta cười, những gì khiến chúng ta khóc và tất cả những gì khiến ta suy tư. Đó là tất cả những gì có ý nghĩa với ta, nhưng đồng thời chúng ta cũng cảm nhận được một cách mạnh mẽ, dẫu mơ hồ, chúng đang tuột khỏi sự nắm bắt của mình, vượt ra ngoài sự phân vân của con người, trôi ra khỏi sự nhận thức của ta. Chỉ một số ít trong chúng ta, kể cả là trong số các nhà triết học, thần học và nhà khoa học, cảm thấy quen thuộc với vòng luẩn quẩn của khoa học và tri thức; còn lại tất cả chúng ta, đều cảm thấy bối rối trước sự phổ quát của một bí ẩn mênh mông và khôn kham này.

Bởi vậy, những tranh cãi đối đầu giữa khoa học và tôn giáo thường chẳng đi được xa hơn ngoài những thuyết giảng dông dài. Cách duy nhất thoát khỏi điều này là các nhà thần học và khoa học phải cùng đồng tình rằng bất cứ những gì họ nói đều chỉ thuộc về hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau và không liên quan gì đến nhau: khoa học chỉ nên giới hạn tham vọng của mình trong việc mô tả lại những gì ta quan sát được; tôn giáo nên tự giới hạn khao khát của nó trong việc gửi đến con người những thông điệp về cách đối nhân xử thế và những uẩn khúc đằng sau nó. Đó là nền tảng chung mà các nhà khoa học và các nhà thần học nên nỗ lực đạt được để có thể cùng đối thoại. Một vài tôn giáo, đặc biệt là ở châu Á như Hindu giáo, Ấn Độ giáo và những tư tưởng như Khổng giáo, Đạo giáo khá cởi mở với cuộc đối thoại như vậy. Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, Ki tô giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo thì bảo thủ hơn, còn những tín đồ theo Thuyết Sáng thế của Mỹ có lẽ là những trường hợp cực đoan nhất về sự vô minh.
Điều này cũng đúng với lập luận liên quan tới sự cao ngạo. Bài học chính để thoát khỏi điều này đó là nhà khoa học phải ý thức được giới hạn của khoa học, nhà thần học phải ý thức được giới hạn của đức tin, và cả hai phải tôn trọng lẫn nhau miễn là đối phương không xâm phạm vào lằn ranh đỏ giữa hai lĩnh vực của nhau. Dĩ nhiên, ai cũng được mời khám phá lĩnh vực của đối phương một cách tự do; bạn có thể là nhà triết học vào buổi sáng nhưng đến buổi chiều lại trở thành nhà khoa học. Đừng quên Lemaître, vừa là linh mục nhưng cũng vừa là tác giả của thuyết Big Bang. Nhưng khi tranh luận về khoa học với tôn giáo, tốt hơn hết là bạn hãy hiểu nguyên tắc trên để tránh việc thốt ra những điều vô nghĩa.
Thông điệp về lòng nhân ái mà một tôn giáo đem đến cho những tín đồ của mình thường bị đè lên bởi những thông điệp ngầm ẩn xung đột và thù địch đối với cộng đồng người đối lập.
Quan trọng hơn cả, trên thực tế là vai trò quan trọng của tôn giáo trong việc định hình số phận của chúng ta.
Cả Chúa Jesus và Khổng tử dạy ta rằng đừng đối xử với người khác theo cách mà ta không muốn mình bị đối xử. Cũng như Noam Chomsky từng viết “những người không đạt được mức đạo đức căn bản là áp dụng lên bản thân những tiêu chuẩn mà họ áp đặt cho người khác […] thì những gì họ nói về đúng và sai, về thiện và ác đều không đáng được coi trọng”. Những chuẩn mực cơ bản về đạo đức, sự hào hiệp, đoàn kết, liêm chính, nghiêm cẩn trong trí tuệ và đức hạnh, đối với chúng ta là những gì phổ quát và chúng ta có thể tự hỏi nó đã gợi cảm hứng cho những suy ngẫm không ngừng của những nhà thần học và triết học như thế nào. Những nguyên tắc này đều được mọi tôn giáo chia sẻ, và chúng ta có thể nghĩ một cách ngây thơ rằng nó phải dẫn đến một tương lai con người chung sống trong hòa bình và hữu nghị. Nhưng điều đang diễn ra thì hoàn toàn ngược lại. Thông điệp về lòng nhân ái mà một tôn giáo đem đến cho những tín đồ của mình thường bị đè lên bởi những thông điệp ngầm ẩn xung đột và thù địch đối với cộng đồng người đối lập. Những cuộc diệt chủng Amerindian đã diễn ra dưới danh nghĩa của chúa và cuộc thảm sát người Do Thái bởi Đức quốc xã được tiếp sức một phần bởi Thiên Chúa giáo và bài Do Thái giáo – những tư tưởng có tuổi đời hàng trăm năm. Ngày nay, cả hai cuộc xung đột giữa Pakistan – Ấn Độ và Israel – Palestine đều mang nặng sự thù hằn tôn giáo. Nhưng chúng ta có thể nói về những cuộc chiến tranh tôn giáo, với ý rằng động cơ đằng sau những cuộc xung đột này là tham vọng muốn người khác phải quy phục niềm tin tôn giáo của mình?

Dĩ nhiên là không. Người thanh niên từ Gaza chiến đấu trong hàng ngũ của Hamas được nuôi dạy theo Đạo Hồi từ khi mới lọt lòng. Trong mỗi tháng Ramadan, từ bình minh tới hoàng hôn, anh ta phải hoàn toàn giữ giới. Anh ta chỉ nghe đi nghe lại những lời dạy trong bài kinh Quran. Ba lần mỗi ngày, anh ta quỳ gập người xuống đất và cầu nguyện. Anh ta biết tất cả mọi điều về Muhammad nhưng chưa từng nghe tới Phật hay thần Vishnu. Điều anh ta gọi là đức tin chỉ đơn giản là một cái khung để đời mình trải ra trên đó. Điều này lớn hơn niềm tin, nó là một văn hóa kéo dài hàng trăm năm nay, bao gồm cả những nghi thức mà một người phải phục tùng và tôn kính mà không chất vấn. Khi chúng ta nghĩ về niềm tin, chúng ta ngụ ý rằng nó nói về một lựa chọn để đặt sự tin tưởng giữa muôn vàn sự chọn lựa. Nhưng nếu chỉ có một sự chọn lựa, nó không còn là niềm tin, nó là đáp án duy nhất. Đó là ý nghĩa của Hồi giáo đối với một người thanh niên trong một cộng đồng mà anh ta thuộc về, là biểu tượng của một số mệnh chung, là lá cờ để họ cùng liên hiệp lại và đấu tranh chống lại những bất công mà mình phải chịu đựng. Điều mà anh ta chiến đấu vì là sự sống còn của bản thân, là sự kháng cự lại trước cuộc bành trướng của Israel, sự khai sinh của nhà nước Palestine.
Một lá cờ. Đó hẳn là cách số đông nhìn nhận về tôn giáo. Vài năm về trước, tôi dành một kì nghỉ vài ngày tới thăm Ấn Độ cùng vợ. Để lấy visa, tôi tới Đại sứ quán và điền vào biểu mẫu yêu cầu ghi: họ tên, giới tính, năm sinh…và tôn giáo; tôi viết “không”. Tôi ký và đưa lại cho người phụ trách. Anh ta đọc qua và không thích từ “không” của tôi chút nào. Anh ta xóa đi, nhìn vào tôi, và viết lại “Thiên Chúa giáo”.
Là những nhà khoa học, chúng ta nên cảm thấy mình cần có trách nhiệm chống lại sự ngu dốt, chúng ta cần khuyến khích những người lãnh đạo của mình thúc đẩy tri thức và hiểu biết thay vì kiểm soát, và chỉ cho phép thông tin một chiều.
Một lá cờ. Các tôn giáo và chủ nghĩa yêu nước có nhiều điểm chung. Cùng chia sẻ một nền văn hóa cấu kết những người trong một cộng đồng lại với nhau, củng cố tình đoàn kết, tôn giáo đã làm tốt điều đó. Nhưng để giúp chúng ta sống hạnh phúc và chan hòa với những cộng đồng khác, thì tôn giáo đã thất bại; nó nên khuyến khích ta tìm hiểu những truyền thống và nền văn hóa khác, học hỏi lẫn nhau, giúp nhau cùng hướng đến một thế giới tốt đẹp hơn, nhưng nó đã không làm được điều gì trong số đó. Trong những trường hợp tồi tệ nhất, nó làm điều ngược lại: nó khiến chúng ta nghĩ rằng kẻ khác là kẻ xấu, là kẻ thù mà chúng ta phải đánh bại. Và thật kì lạ khi chứng kiến chúng ta đã sa ngã vào những khẩu lệnh đó dễ dàng thế nào.
Những lãnh tụ tôn giáo và những nhà lãnh đạo chính trị hẳn nhận thức được sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tôn giáo như những công cụ quản trị. Điều đó kích thích tới một vài người trong số họ khai thác sự quyến rũ của niềm tin tôn giáo lên người dân và mong muốn duy trì sự vô minh để càng dễ bề dẫn dắt. Điều đó hóa ra dễ hơn ta tưởng, số đông dễ bị nghiêng ngả rồi sa vào những thuyết âm mưu và thần thoại, như Hitler từng tuyên bố: “Nếu bạn cần sự ủng hộ của số đông, bạn phải nói với họ những điều thô lậu và ngu xuẩn nhất”. Rất nhiều những trang sử tăm tối của loài người đều liên quan tới việc áp đặt hoặc cấm đoán niềm tin và thực hành tôn giáo. Hãy nhớ lại Luật Butler, cấm các thầy cô giáo trường công ở bang Tennessee dạy về thuyết tiến hóa và phủ nhận nguồn gốc của lời người trong kinh thánh. Hãy nhớ lại cuộc đại thanh trừng của Stalin, thậm chí là phá hủy nhà thờ, nhà nguyện và ra lệnh cầm tù, hoặc xử tử hàng ngàn người theo đạo Thiên Chúa giáo, Do Thái và Hồi giáo. Hãy nhớ lại Giordano Bruno từng bị đưa lên giàn hỏa thiêu ở Rome vào năm 1600 bởi giới Thiên Chúa giáo vì đã phủ nhận tư tưởng của họ: ông cho rằng thay vì ngôi sao là những mặt trời ở xa, và mỗi ngôi sao đều có một hệ hành tinh quay xung quanh, thì có khả năng chúng chỉ đứng một mình, và vũ trụ là vô tận và không có trung tâm.
Đó là thế giới mà chúng ta đang sống. Một vài trong chúng ta, rất ít, là những kẻ lãng mạn tin vào địa đàng, mơ mộng về một thế giới chan hòa, dung chứa sự đa dạng của các nền văn hóa, các nền văn hóa cùng tôn trọng lẫn nhau và cùng giúp nhau hướng đến một xã hội tốt đẹp hơn vào ngày mai. Họ gọi bản thân mình là những nhà nhân văn và công dân của thế giới. Thật đáng ca ngợi! Bắt chước họ có lẽ là một đòi hỏi quá lớn nhưng là những nhà khoa học, chúng ta nên cảm thấy mình cần có trách nhiệm chống lại sự ngu dốt, chúng ta cần khuyến khích những người lãnh đạo của mình thúc đẩy tri thức và hiểu biết thay vì kiểm soát, và chỉ cho phép thông tin một chiều. Chúng ta cần nhắc họ những lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Việt Nam thì sao? Phần lớn người Việt đều theo những niềm tin tín ngưỡng phổ biến, và thực hành những lễ nghi kèm theo một cách cẩn trọng, chẳng hạn như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự tôn kính này còn được nhìn nhận như một biểu hiện của lòng hiếu thảo. Cả nước có khoảng 20.000 đền chùa thờ những vị thần bình đẳng như các anh hùng dân tộc. Những niềm tin, tín ngưỡng của Việt Nam hiện nay có sự kế thừa di sản của Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và truyền thống thờ cúng của riêng mình. Nhờ vậy, tôn giáo ở Việt Nam không mang sắc thái thần phục và uy nghiêm vốn đè nặng lên các tôn giáo Abrahamic, mà nó bao dung hơn, nhân từ hơn. Châm ngôn “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành” đã lột tả được tinh thần đó rõ ràng, với chỉ tám chữ, nó thể hiện một thông điệp sâu sắc trong văn hóa Việt Nam; ngoài ca tụng việc thờ cúng và tính chất linh thiêng của nó, đây giống như một lời nhắc cần tôn trọng truyền thống và tuân theo những chuẩn mực hành vi của nó: không bổ ngang thì cũng bổ dọc, cẩn tắc vô ưu. Người Việt không tự cao cho rằng tín ngưỡng của mình ưu việt hơn người khác, họ không kiêu ngạo coi mình được một đấng tối cao linh thiêng mang trọng trách giác ngộ. Người Việt trong mắt tôi hết sức gần gũi, sống chan hòa với những người khác, có lẽ là hơn rất nhiều tín đồ quy phục Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo vô điều kiện.
Những người nước ngoài, theo cách định hướng mềm dẻo của Chính phủ Việt Nam với vấn đề tôn giáo, cũng được khuyến khích sống chan hòa như vậy, thường nhìn Việt Nam như một nước vô thần. Ví dụ, Mạng lưới Phát triển Mở, một sáng kiến trung lập và khách quan, có mục tiêu phát triển khu vực Hạ lưu sông Mekong, cho biết 86% dân số kê khai là không có tôn giáo, 6% là Thiên Chúa giáo và 5% là Phật Giáo. Họ cũng cho biết tỉ lệ dân số theo các tôn giáo khác như Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Hồi giáo, Bà la môn, Đạo Từ An Hiếu Nghĩa, đạo Cơ Đốc Phục Lâm, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh Sư Đạo là 3%. Nó cho thấy bức tranh về thực tế ở Việt Nam rộng mở như thế nào so với cái nhìn giới hạn của Ki-tô giáo ở phương Tây. Những người phương Tây thường dùng thuật ngữ “tín ngưỡng dân gian” để nói về niềm tin của người Việt. Họ thấy câu chuyện của Adam và Eva cao quý hơn Lạc Long Quân và Âu Cơ, hay nữ tướng Joan of Arc lắng nghe thánh Archangel Michael đáng kính hơn câu chuyện Lê Lợi trả gươm cho thần rùa. Nhưng tôi thì không thấy như vậy.
Mọi thứ rồi sẽ tốt đẹp trong những kịch bản tốt đẹp nhất của thế giới – có lẽ còn xa mới được như vậy. Trong vấn đề tự do tôn giáo, sự quản trị tốt đồng nghĩa với việc tìm được điểm cân bằng giữa bao dung và kiểm soát. Và cùng với đó là khuyến khích sự thấu hiểu và đối thoại giữa những tín đồ của những tử tưởng khác nhau, phải kiềm chế những tham vọng tạo ra một quyền lực áp đảo dẫn đến sự bất ổn. Cấm đoán việc thực hành tôn giáo thường tạo ra tác động ngược với ý muốn ban đầu. Tôi nhớ vào cuối những năm 70, đầu những năm 80, khi đến Liên bang Soviet trong các hội thảo và trường học, tôi thấy ngạc nhiên biết bao khi chứng kiến rất nhiều nhà vật lý của thế hệ mình (lúc đó tôi còn trẻ) biểu thị niềm tin tôn giáo mạnh mẽ đáp lại giáo điều của những người lãnh đạo. Là những nhà khoa học, chúng ta phải nhận thức được sự phức tạp của vấn đề, đặc biệt là khi nó liên quan đến những người thiểu số gần đây bị buộc phải đối diện với một thế giới hoàn toàn khác lạ với những gì họ từng sống hàng thập kỉ. Chúng ta phải nỗ lực hết sức để thúc đẩy tư duy lí trí và sự thấu hiểu, bao dung và tôn trọng. □
Hảo Linh dịch
Bài đăng Tia Sáng số 15/2025