Không khí Hà Nội: Bao giờ lấy lại sự trong lành?

Bất chấp những gì khoa học có được sau hơn hai thập niên nghiên cứu về chất lượng không khí, tình trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội vẫn chưa được cải thiện, thậm chí còn có xu hướng tồi tệ thêm. Nguyên nhân của tình trạng này là gì?

Hà Nội thường có những đợt ô nhiễm không khí nặng nề vào mùa đông. Ảnh: Shutterstock

Dẫu biến đổi khí hậu đang làm cho chu kỳ mùa của Hà Nội đôi khi khó phân định hơn nhưng nhịp điệu mùa ‘xuân, hạ, thu, đông’ vẫn khiến thành phố xinh đẹp ngàn năm tuổi này trở nên khác biệt với nhiều nơi khác của Việt Nam. Tuy vậy, trong hơn một thập niên trở lại đây, những người sinh sống và làm việc ở Hà Nội cũng dần nhận biết về sự tồn tại của mùa thứ năm – mùa ô nhiễm không khí, thường kéo dài từ khoảng tháng chín, tháng 10 năm trước đến tháng ba, tháng bốn năm sau. Trong những cuộc trò chuyện, trên mặt báo và trên các trang mạng xã hội, họ trao đổi, thảo luận về tình trạng ô nhiễm không khí dai dẳng ‘đến hẹn lại lên’. Nỗi hoài nghi và lo ngại đi kèm với những cảnh báo đậm màu đỏ và tím trên bản đồ chất lượng không khí Hà Nội vào cao điểm mùa ô nhiễm khiến xuất hiện một luồng thông tin phổ biến mà nổi bật trong đó là “Hà Nội là thành phố có không khí ô nhiễm bậc nhất thế giới”, “Hà Nội lại là thành phố đứng đầu về ô nhiễm không khí”, “Hà Nội trong ‘top 3’ thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới”, “xe máy là thủ phạm số một của tình trạng ô nhiễm không khí”… 

Những thông tin này có thực sự chuẩn xác? có phản ánh đúng bản chất ô nhiễm của không khí Hà Nội? hay những gì chúng ta biết mới chỉ là một mặt của vấn đề? Thông thường, khi nghĩ về ô nhiễm không khí, mọi người chỉ quan tâm đến nồng độ bụi PM2.5 nhưng câu chuyện ô nhiễm không khí dưới góc nhìn khoa học không chỉ có thế. Ô nhiễm không khí bao hàm ngày một nhiều thành phần, thông số đa dạng và chúng cũng biến thiên theo không gian và thời gian. Vì vậy, khi Tia Sáng nêu câu hỏi với các nhà khoa học, những người có từ hơn 10 năm đến 20 năm nghiên cứu về ô nhiễm không khí, câu trả lời có thể gây ngỡ ngàng. “‘Hà Nội là thành phố ô nhiễm nhất thế giới’, câu nói đó bảo đúng thì cũng đúng mà nói sai thì cũng sai bởi nếu nói đến ô nhiễm thì phải nói cụ thể đó là ô nhiễm  gì? ở đâu của Hà Nội? vào thời gian nào? Phải xác định đúng các chất ô nhiễm và các thông tin tham chiếu thì mới rõ được chứ nói chung chung như vậy không thuyết phục lắm”, TS. Vương Thu Bắc (Viện Nghiên cứu KH&KT hạt nhân, Viện NLNTVN) cho biết. 


Vào đầu tháng 1/2025, Sở TN&MT Hà Nội đã lý giải nguyên nhân ô nhiễm tập trung vào các nhóm nguồn thải chủ đạo là hoạt động giao thông vận tải, xây dựng, sản xuất công nghiệp, khai thác mỏ, hoạt động dân sinh, đốt bếp than tổ ong, các yếu tố điều kiện khí tượng, thời tiết… nhưng chưa có bảng xếp hạng khả tín các nguồn.

Ô nhiễm không khí Hà Nội không phải chuyện đơn giản có thể gói gọn và lý giải trong một vài nhận định khái quát. PGS. TS Hoàng Anh Lê, một nhà nghiên cứu có thâm niên khác ở ĐH Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, cũng đồng tình quan điểm “Khi đề cập đến tình trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội, người ta vẫn thường nói một cách chung chung mà không để ý rằng các quận huyện, địa bàn khác nhau của thành phố không ở tình trạng ô nhiễm như nhau do chịu ảnh hưởng từ các nguồn phát thải khác nhau. Trên thực tế, khu vực nội thành Hà Nội có thể chịu nhiều ảnh hưởng của các hoạt động giao thông vận tải, khu vực ngoại thành ô nhiễm có thể chịu ảnh hưởng bởi nguồn thải khác”.  Cụm từ ‘ô nhiễm không khí’, do đó, ẩn chứa nhiều phức tạp hơn những gì người ta vẫn nói. 

Khi đặt những thông tin khoa học và những thông tin mà xã hội vẫn trao đổi cạnh nhau, có thể thấy nổi lên một vấn đề ‘tại sao, sau hơn hai thập niên nghiên cứu, vẫn tồn tại sự sai khác cơ bản, khi nhìn vào tình trạng ô nhiễm không khí? Liệu còn những khoảng trống thông tin nào cần được lấp đầy?’  

Ẩn số nguồn ô nhiễm 

Nếu vào khoảng năm, mười năm trước, những thông tin công khai về tình trạng ô nhiễm không khí ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng vẫn còn hiếm hoi và ít ỏi thì nay ngược lại, nguồn thông tin này đã nhiều lên và đa dạng hơn. Nguyên nhân là do trước đây, hầu như người ta chỉ dựa vào nguồn tin, hoặc nhỏ giọt hoặc ồ ạt, từ các trang web của các tổ chức quốc tế, còn nay thông tin về ô nhiễm không khí không chỉ được phản ánh sôi nổi trên truyền thông mà còn hiển thị trên những cảm biến giá rẻ được nhiều người lắp đặt tại nhà, ví dụ như cảm biến của mạng lưới về chất lượng không khí PAM Air. Đó cũng là nguồn cơn của những trao đổi khắp đây đó về ô nhiễm không khí, hòa trộn cả đúng và chưa đúng. 

Người dân thường phải dùng khẩu trang để đối phó với ô nhiễm không khí. Ảnh: iStock

Một trong những điều gây tranh cãi bậc nhất là việc xác định các nguồn gây ô nhiễm. Ô nhiễm không thể tự nhiên sinh ra, chắc hẳn phải đến từ một vài nguồn nào đó? Ai cũng nghĩ vậy nhưng chưa thể có một câu trả lời chính thức. Từ chính quyền Hà Nội đến người dân sinh sống và làm việc tại Thủ đô đều loay hoay đi tìm câu trả lời, đặc biệt cho câu hỏi ‘đâu là nguồn phát thải lớn nhất’? Dường như ai cũng có đáp số của riêng mình, người thì tin vào nguồn phát thải chính là từ giao thông với gần bảy triệu xe máy, hoặc là từ hoạt động sản xuất kinh doanh của hơn 1.300 làng nghề, 10 khu công nghiệp và 70 cụm công nghiệp…, nguồn nào cũng có tiềm năng trở thành nguồn phát thải nhiều nhất. Tại một cuộc họp vào đầu tháng 1/2025, Sở TN&MT Hà Nội đã lý giải nguyên nhân ô nhiễm tập trung vào các nhóm nguồn thải chủ đạo là hoạt động giao thông vận tải, xây dựng, sản xuất công nghiệp, khai thác mỏ, hoạt động dân sinh, đốt bếp than tổ ong, các yếu tố điều kiện khí tượng, thời tiết… nhưng chưa có bảng xếp hạng khả tín các nguồn 1

Cho đến giờ, Sở vẫn chưa xác định được rõ đâu là nguồn phát thải chính, trong khi nếu làm được điều này, họ sẽ có được gợi ý về lộ trình giảm phát thải, một lộ trình cần được thực hiện trong nhiều năm với một loạt chính sách nhằm kiểm soát những nguồn phát thải lớn nhất để Hà Nội có được bầu không khí sạch, trong lành, hoặc chí ít cũng trở nên tốt hơn vào mỗi mùa ô nhiễm hằng năm. Có lẽ, sau hơn một thập niên, kể từ khi được cảnh báo về tình trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội, các nhà quản lý môi trường thủ đô mới chỉ dừng lại ở việc nhận biết được các nguồn gây ô nhiễm. Cũng như dân chúng, bản thân Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cũng đang băn khoăn: giữa nhóm năm, sáu nguồn thải này, đâu là thủ phạm lớn nhất?


Câu chuyện ô nhiễm không khí ở Hà Nội chưa bao giờ đơn giản, nó không chỉ bao hàm những nguồn phát thải tại chỗ mà còn từ vận chuyển từ xa đến.

Dẫu đó vẫn là một ẩn số với các nhà quản lý nhưng với các nhà nghiên cứu, họ đã tìm ra câu trả lời. “Người ta vẫn thường nghi ngờ giao thông là nguyên nhân phát thải chính nhưng thực ra, sau 20 năm nghiên cứu, tôi thấy mức độ đóng góp của giao thông, đặc biệt là xe máy, chỉ khoảng từ 8 đến 10% hoặc 11%, tất nhiên có xu hướng tăng lên nhưng không quá nhiều. Ít người để ý là TPHCM có dân số đông hơn Hà Nội, lượng xe cộ lưu thông cũng lớn hơn Hà Nội mà ô nhiễm lại thấp hơn Hà Nội. Tại sao lại cứ đổ lỗi hết cho xe cộ trong khi thực tế còn do các nguồn gây ô nhiễm khác nữa?”, TS. Vương Thu Bắc, người mới hoàn thiện một đề tài nghiên cứu do Bộ KH&CN tài trợ “Nghiên cứu đặc trưng và Nguồn gốc ô nhiễm sol khí mịn ở Hà Nội giai đoạn 2021-2023”, đặt ngược câu hỏi.

Dĩ nhiên, giao thông cũng là một trong số những nguồn phát thải ở Hà Nội, nơi có 1,1 triệu xe ô tô, hơn 6,9 triệu xe máy (số liệu năm 2019) 2. Song không phải lúc nào, nguồn phát xe máy cũng đóng góp vào phát thải ô nhiễm như nhau bởi đặc điểm của nguồn phát này là ở chỗ nó biển đổi theo giờ, không ổn định như các nguồn phát công nghiệp. “Hai cao điểm của phát thải trong giao thông là từ 6 giờ đến 7, 8 giờ sáng và sau bốn giờ chiều, trùng với cao điểm tham gia lưu thông của xe máy”, PGS. TS Hoàng Anh Lê, một trong số hiếm hoi những người đã nghiên cứu phát thải của gần đủ các loại hình giao thông Hà Nội (trừ phát thải hàng không). “Còn một cao điểm khác của phát thải giao thông là vào ban đêm, khung giờ các xe trọng tải lớn được phép hoạt động”. Theo quan sát của ông, lượng phát thải giữa các ngày trong tuần về cơ bản khá đồng nhất nhưng cuối tuần “khác đi một chút bởi mọi người ra đường ít đi và muộn hơn”.

Hà Nội đã mở tuyến đường sắt trên cao đầu tiên nhằm tăng cường hệ thống giao thông công cộng. Ảnh: iStock

Vậy đâu là nguồn phát thải chính trong mùa ô nhiễm? Câu hỏi vẫn tồn tại này cần được trả lời bằng những thông tin khả tín, không chỉ cho những người dân băn khoăn mà cả các nhà quản lý luôn muốn có bằng chứng thuyết phục. “Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, nguồn ô nhiễm do đốt sinh khối, đốt than và đốt nhiên liệu chiếm tới 33,8 % với các chỉ dấu quan trọng như thành phần kali, carbon đen, amoni, sunfat, nitrate trong bụi mịn PM2.5”, TS. Vương Thu Bắc phân tích. “Từ hàm lượng các nguyên tố hóa học, các ion hòa tan trong bụi mịn PM2.5 và các thành phần carbon (OC, EC) phân tích được trong bụi mịn PM2.5,chúng ta có thể nhận diện và đánh giá được các nguồn phát sinh ra ô nhiễm bụi mịn PM2.5 như nguồn do đốt sinh khối, nguồn sol khí thứ cấp, hoạt động công nghiệp, xe cộ, bụi đất, xây dựng…

Thông thường, khi nói đến đốt sinh khối, người ta vẫn nghĩ ngay đến việc đốt phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ của người nông dân sau thu hoạch mùa màng; nhưng ngặt một nỗi, việc đốt rơm rạ ở miền Bắc, trong đó có Hà Nội, chỉ tập trung cao điểm khoảng hai tuần của tháng tám, tháng chín (vụ hè thu) và tháng năm, tháng sáu (vụ đông xuân). Đốt sinh khối ở đây, không chỉ là đốt rơm rạ mà còn có cả từ đốt rác bởi theo PGS.TS Vũ Thanh Ca (ĐH Tài nguyên và Môi trường) “Một phần rất lớn đốt sinh khối ở Việt Nam hiện nay là đốt rác. Do thiếu đất để làm nơi chứa chất thải, tất cả các địa phương tại khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng, thậm chí trung du Bắc Bộ đều đốt, bằng lò thủ công”3. Sự kết hợp của đốt rác mở và vận hành các lò đốt rác thủ công càng thêm khiến bầu không khí của Hà Nội càng thêm xấu đi 4


Việc định lượng các nguồn hình thành hạt bụi và nồng độ của hạt bụi trong mùa ô nhiễm không chỉ cho chúng ta thấy những mối nguy cơ lớn nhất từ đâu mà còn giúp trả lời câu hỏi vì sao ô nhiễm không khí ở Hà Nội lại trầm trọng trong mùa đông.

Câu chuyện ô nhiễm không khí ở Hà Nội không chỉ bao hàm những nguồn phát thải tại chỗ mà còn từ vận chuyển từ xa đến. Từ những kết quả nghiên cứu cách đây 20 năm, bắt đầu từ nhóm nghiên cứu của GS. Phạm Duy Hiển, người ta biết rằng, về mùa đông, vận chuyển từ xa cũng là một nguồn phát thải đáng kể. “Kết quả nghiên cứu mới đã khẳng định thêm điều đó. Trong nguồn vận chuyển từ xa với sol khí thứ cấp giàu amonium, sulfat và nitrate trong bụi mịn còn có carbon đen, carbon hữu cơ, lưu huỳnh dioxide…, chiếm 17,3%”, TS. Vương Thu Bắc nói. “Vùng phía Đông và Đông Nam Trung Quốc được xem là nguồn gây ô nhiễm xuyên biên giới đến miền Bắc Việt Nam”. Để có câu trả lời này, ông và nhóm nghiên cứu đã phân tích thành phần mẫu bụi thu thập được bằng kỹ thuật hạt nhân và các kỹ thuật liên quan kết hợp với mô hình quỹ đạo lùi của các khối không khí. “Về mùa đông, nồng độ bụi mịn ở Hà Nội thường tăng gấp khoảng hai lần do gió mùa Đông Bắc từ vùng này thổi về thường mang theo các chất ô nhiễm. Thậm chí, những chính sách kiểm soát ô nhiễm ở vùng Đông và Đông Nam Trung Quốc đã tác động đến cả thành phần và tính chất của bụi mịn ở Hà Nội”. 

Không chỉ riêng nghiên cứu của TS. Vương Thu Bắc hay PGS.TS Hoàng Anh Lê mà kết quả thu được của nhiều nhóm khác ở Hà Nội đã cho thấy phát thải từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, các nhà máy nhiệt điện than cũng gia nhiệt thêm cho không khí Hà Nội. Theo các nhà nghiên cứu ở trường ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội và một số trường đại học Pháp, hạt bụi PM2.5 chứa thành phần valadium và nikel, chỉ dấu của việc tiêu thụ dầu nặng FO – loại dầu được sử dụng rộng rãi trong các hệ thống đốt cháy công nghiệp của nhà máy nhiệt điện, nhà máy chế biến, các ứng dụng công nghiệp khác cũng như các động cơ đốt trong của tàu biển, xe tải trọng lớn – tới 25,3 %5. “Hiện diện của hoạt động công nghiệp và các nhà máy nhiệt điện than trong hạt bụi PM2.5 là ở thành phần carbon đen, carbon hữu cơ, sulfat cùng khá nhiều kim loại nặng như asen, cadimi, ceri, sắt, titan, brom, mangan. Theo nghiên cứu của chúng tôi, nguồn ô nhiễm này đóng góp khoảng 12,5% vào nồng độ bụi mịn PM2.5”, TS. Vương Thu Bắc chia sẻ. 

Mở rộng những khoảng không gian xanh trong thành phố là một trong những giải pháp giảm thiểu tác động của ô nhiễm không khí. Ảnh: Shutterstock

Có lẽ, việc định lượng các nguồn hình thành hạt bụi và nồng độ của hạt bụi trong mùa ô nhiễm không chỉ cho chúng ta thấy những mối nguy cơ lớn nhất từ đâu mà còn giúp trả lời câu hỏi vì sao ô nhiễm không khí ở Hà Nội lại trầm trọng trong mùa đông. “Thường vào mùa đông, các khối khí lạnh có thể mang theo ô nhiễm từ vùng Đông Nam Trung Quốc và cả các vùng công nghiệp quanh Hà Nội (đồng bằng sông Hồng)… Ngoài ra, sự đóng góp của ô nhiễm địa phương ở các đợt ô nhiễm nghiêm trọng nhất, xảy ra trong thời kỳ lạnh tăng cường kéo dài, ước tính vào khoảng 40% khối lượng hạt bụi PM2.56.

Mùa thứ năm của Hà Nội trùng khớp với thời kỳ có hiện tượng nghịch nhiệt do bức xạ sát mặt đất (từ tháng 10 đến tháng 12) và hiện tượng nồm ẩm vào mùa xuân, thời điểm sau Tết Nguyên đán hằng năm, khiến cho bầu không khí vốn đã xấu lại càng thêm trầm trọng vì các chất gây ô nhiễm không khuếch tán được như trong mùa hè. “Điều kiện khí tượng cũng ảnh hưởng đến chất lượng không khí của Hà Nội. Khi chúng ta cộng gộp rất nhiều yếu tố lại thì mới thấy bầu không khí Hà Nội bị ảnh hưởng từ rất nhiều nguồn tự nhiên và nhân sinh như thế nào”, theo nhận xét của PGS.TS Hoàng Anh Lê..

Giảm thiểu ô nhiễm bằng cách nào? 

Câu hỏi này luôn lơ lửng trong đầu chính quyền Hà Nội mỗi khi thành phố bước vào mùa ô nhiễm và khi mọi nam phụ lão ấu, giàu có sang hèn đều phải chịu cảnh thở chung một bầu không khí kém chất lượng. Kể từ những ngày đầu được cảnh báo về tình trạng ô nhiễm, sợ hãi thông tin “nhạy cảm lắm” vì lo ảnh hưởng tới hoạt động du lịch cho đến khi các cấp chính quyền Hà Nội sẵn sàng bước vào công cuộc làm sạch ô nhiễm cũng phải mất nhiều năm. Những việc chính quyền ra tay, bước đầu cũng đã có thành công, như lắp đặt một số trạm quan trắc, loại bỏ bếp than tổ ong ở khu vực nội thành, hạn chế đốt rơm rạ sau mùa thu hoạch ở ngoại thành, thúc đẩy giao thông công cộng (xây dựng đường sắt trên cao, mở thêm các tuyến xe buýt)… Ví dụ theo báo cáo của Hà Nội, những kết quả tích cực về giảm lượng bếp tổ ong từ 56.670 bếp vào tháng 1/2017 xuống còn 15.418 vào tháng 6/2020, nghĩa là giảm 72,8%7.


“Lâu nay, chúng ta rất loay hoay với quản lý môi trường vì chúng ta thiếu công cụ kiểm kê khí thải trong đó. Chỉ khi biết được nguồn nào là nguồn đóng góp chính, nguồn nào phát thải các chất nguy hại, chúng ta mới có giải pháp quản lý cho trúng, đúng chứ không nên đưa ra chính sách theo kiểu ngộ nhận, cảm tính”. (PGS. TS Hoàng Anh Lê)

Tuy nhiên tất cả những điều này vẫn chỉ như muối bỏ bể so với hiện trạng ô nhiễm không khí của Hà Nội. “Tình trạng ô nhiễm không khí của Hà Nội trong vòng 20 năm qua đã thay đổi rõ rệt. Chỉ xét riêng nồng độ bụi mịn, vào những năm 2000 thì trung bình dưới 50 μg/m3, những năm 2010 là 60 μg/m3, những năm 2020 là 80 μg/m3, nghĩa là tăng gần gấp đôi trong vòng hai thập niên”, TS. Vương Thu Bắc nhận xét.

Việc đi tìm lời giải là một vấn đề nan giải, không phải chỉ ở chỗ tính chất phức tạp của ô nhiễm không khí mà còn bởi việc thực hiện nó thường đòi hỏi xâu chuỗi sau thời gian dài nghiên cứu mới có kết quả có độ tin cậy cao. Trong khi chưa có được lộ trình như vậy, Hà Nội vẫn là một trong những thành phố ô nhiễm không khí bậc nhất Việt Nam, thậm chí có thể vượt TPHCM trong mùa ô nhiễm. “Khi so sánh hai thành phố lớn nhất Việt Nam này, có thể thấy là chúng ta chưa so sánh được một cách chính xác về tổng lượng phát thải vì Hà Nội chưa thực hiện xong chương trình kiểm kê khí thải. Tuy nhiên xét một cách tương đối thì mức ô nhiễm ở Hà nội có vẻ cao hơn TPHCM. Lượng cao hơn này không chắc là do tổng lượng phát thải cao hơn bởi Hà Nội có số lượng ô tô, xe máy ít hơn, diện tích nhỏ hơn mà có thể do ảnh hưởng bởi các điều kiện khí tượng, địa lý khác TPHCM. Hà Nội nằm ở phía Bắc, hướng gió chủ yếu từ Đông Bắc, tiếp nhận chất thải theo luồng không khí từ phương Bắc; trong khi TPHCM nằm sát với đường bờ biển, địa hình tương đối bằng phẳng, khả năng xáo trộn chất ô nhiễm tốt hơn, khuếch tán tốt hơn. Vì vậy, tổng lượng ô nhiễm của TP. HCM có thể cao hơn Hà Nội nhưng lại có điều kiện khuếch tán ô nhiễm tốt hơn, do vậy mức ô nhiễm có thể thấp hơn”, PGS.TS. Hoàng Anh Lê phân tích. 

Có lẽ, cái đặc biệt của hai thành phố lớn, nơi có rất nhiều đặc điểm tương tự nhau, ví dụ như được bao quanh bằng một vành đai các khu công nghiệp, các hoạt động nhân sinh phong phú và có đủ loại hình giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng không), khiến người ta thường đặt cả hai lên bàn cân so sánh. “Hầu như bao giờ không khí Hà Nội cũng cao hơn TPHCM, sự khác biệt này cũng thể hiện ở thành phần kim loại vết hòa tan trong bụi khí quyển”, một nhà nghiên cứu ở ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM từng tham gia vào một dự án nghiên cứu quốc tế, nói. “Nói chung, hầu hết các kim loại vết hòa tan ở Hà Nội luôn cao hơn TP.HCM một cách rõ rệt. Khi đi tìm nguồn phát để lý giải sự khác biệt này, chúng tôi thấy rằng ở Hà Nội, một số kim loại chủ yếu là từ các nhà máy nhiệt điện đốt than, còn trong TPHCM là từ một số hoạt động công nghiệp, đặc biệt là từ vận tải tàu biển với quá trình đốt dầu HFO”.

Sự khác biệt về yếu tố khí tượng và vị trí địa lý có thể khiến ô nhiễm không khí ở Hà Nội trầm trọng hơn TPHCM chăng? Trên thực tế thì vào mùa khô hay mùa mưa thì về cơ bản, TPHCM thường có mức độ ô nhiễm thấp hơn Hà Nội, nhà nghiên cứu ở ĐHQTPHCM nhận xét. “Khi so sánh cùng thời điểm trong năm, có thể thấy ở TPHCM, các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs), một chỉ dấu của ô nhiễm không khí khu vực đô thị, có nồng độ thấp hơn khoảng hai lần so với VOCs ngoài Hà Nội”.

Để lấy lại được phần nào bầu không khí trong lành, có lẽ Hà Nội không chỉ chờ đến những giải pháp tự nhiên như là những cơn mưa rào hoặc chờ mùa hè tới, bởi ngay ở thời điểm đó thì nồng độ bụi PM2.5 ước tính vào khoảng 27 đến 28μg/m3, cao hơn so với tiêu chuẩn Việt Nam về chất lượng không khí xung quanh, và dĩ nhiên cao hơn mức khuyến cáo của WHO”, PGS. TS Hoàng Anh Lê dẫn số liệu của Bộ TN&MT. 

Câu chuyện ô nhiễm không khí không của riêng Hà Nội hay TPHCM mà còn của rất nhiều đô thị lớn lân cận ở Đông Nam Á và châu Á. Nhiều năm qua, những nơi như Seoul (Hàn Quốc), Bắc Kinh, Thiên Tân, Hồ Bắc (Trung Quốc) đã tuyên chiến thực sự với ô nhiễm không khí. Trung Quốc đã dành các nguồn kinh phí lớn để giải quyết tình trạng này, thông qua nhiều sáng kiến như Kế hoạch hành động quốc gia về chất lượng không khí với tổng chi phí 270 tỉ USD, thành phố Bắc Kinh phân bổ thêm 120 tỉ USD8. Tuy không phải bỏ một khoản chi phí lớn như Trung Quốc nhưng “chiến lược bầu trời xanh” của Hàn Quốc cũng tốn kém đáng kể: từ năm 2007 đến năm 2020, chính quyền ba thành phố lân cận Seoul, Incheon và Gyeonggi đã rót 9 tỉ USD cho quản lý không khí, trong đó 56% là cho các biện pháp giảm phát thải giao thông và 3,2 tỉ USD là cho các dự án cung cấp bằng chứng về nguồn phát thải và tăng sự tham gia của người dân về chất lượng không khí mà kết quả là trong vòng 15 năm giảm được 19% nồng độ bụi PM2.5  và sau đó, nhích từ chút một khi nồng độ bụi PM2.5 vào năm 2022 là 18,3 μg/m3 so với 19,5 μg/m3 vào năm 2021 9.

Hà Nội phải làm sao đây? Liệu có học hỏi được những bài học nào và áp dụng được những bài học nào? Thật khó đưa ra một lộ trình trên giấy khi chúng ta chưa thực sự có được những thông số chính thức về hiện trạng ô nhiễm của Hà Nội. “Đúng là các nhà khoa học đã có trong tay công cụ mô hình hóa để xác định nguồn thể, xác định nguồn phát thải. Nhiều dự án của Worldbank cũng như dự án của các nhóm nghiên cứu làm về ô nhiễm không khí của Hà Nội cũng chỉ ra những nguồn phát thải chính nhưng thực tế vấn đề nguồn phát và tỉ lệ đóng góp của từng nguồn vẫn có sự khác biệt”, PGS. TS Hoàng Anh Lê cho biết. Nguyên nhân của vấn đề này, theo ông, “có thể vì các nghiên cứu được thực hiện ở các khoảng thời gian khác nhau, thời điểm lấy mẫu khác nhau nên kết quả cũng khác nhau”.

Việc giảm thiểu tình trạng ô nhiễm, muốn hiệu quả, cần nhắm vào nguồn phát thải lớn nhất, sau đó tiếp tục chuyển sang những nguồn phát thải nhiều thứ hai, thứ ba… Muốn có được bảng xếp hạng này, PGS.TS Hoàng Anh Lê cho rằng, Hà Nội cần phải tiến hành kiểm kê phát thải toàn diện hơn, đó là công cụ bản lề cho nhiệm vụ hoạch định chính sách, duy trì và nâng cao chất lượng không khí của thủ đô. “Lâu nay, chúng ta rất loay hoay với quản lý môi trường vì chúng ta thiếu công cụ kiểm kê khí thải trong đó. Chỉ khi biết được nguồn nào là nguồn đóng góp chính, nguồn nào phát thải các chất nguy hại, chúng ta mới có giải pháp quản lý cho trúng, đúng chứ không nên đưa ra chính sách theo kiểu ngộ nhận, cảm tính”, ông nói. 

Trong khi chương trình kiểm kê khí thải ở Hà Nội chưa được thực hiện triệt để, hoàn thiện thì khá nhiều địa phương trên cả nước đã hoàn tất kế hoạch kiểm kê của mình, bao gồm TPHCM, Quảng Ninh, Thanh Hóa… “Việc cho đến nay Hà Nội chưa triển khai kiểm kê khí thải toàn diện, đồng bộ là một sự đáng tiếc”, PGS. TS Hoàng Anh Lê nhận xét. “Tại sao Hà Nội là nơi tập trung nhiều nhân lực, các điều kiện về cơ sở hạ tầng và cả nguồn kinh phí nữa mà chưa làm được?”.

Dù đã trên lộ trình giảm thiểu ô nhiễm nhưng cho đến nay Hà Nội chưa kiểm kê khí thải. Đây có thể coi là một thất bại chính sách? 

Câu hỏi ấy giờ vẫn đang treo ở đó, dưới vòm trời trắng đục như sữa vào buổi trưa và mờ mịt khói mù (haze) vào buổi sớm. Rất có thể, mơ ước một ngày nào đó được hít thở một bầu không khí trong lành của người Hà Nội vẫn còn bỏ ngỏ. □

Chính sách kiểm soát ô nhiễm ở Bắc Kinh ảnh hưởng đến hạt bụi Hà Nội
Hạt bụi PM2.5 cũng thay đổi tính chất theo mùa, đặc biệt là tính a xít và tính kiềm. Về mùa đông, các sol khí có tính axit liên quan đến gió mùa Đông Bắc với các nguồn gió ở khu vực ven biển đô thị hóa và ô nhiễm cao của tỉnh Quảng Đông, bao gồm các siêu đô thị như Quảng Châu, Hồng Kông, Thâm Quyến và các thành phố khác. Các sol khí kiềm liên quan đến gió mùa Đông Bắc từ các nguồn giàu amoni ở Nam Trung Quốc, vốn là những khu vực nông nghiệp rộng lớn. Các biện pháp kiểm soát khí thải nhắm vào sulfur dioxide (SO2) và nitơ oxide (NOx) như sử dụng nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp và công nghệ tiên tiến để tăng hiệu suất đốt than trong các nhà máy nhiệt điện và áp dụng các tiêu chuẩn khí thải xe cộ ngày càng nghiêm ngặt của châu Âu, nhưng bỏ qua phát thải amoni (NH3). Vì vậy, có thể các biện pháp kiểm soát khí thải đã biến các khu vực nghèo amoni thành những khu vực giàu amoni, dẫn đến gia tăng lượng các sol khí kiềm ở Hà Nội trong giai đoạn 2021-2022. 
(Pham Duy Hien, Vuong Thu Bac, Ha Lan Anh, Quang Tran Vuong (2024). “Impact of the East Asia monsoon on PM2.5 acidity in Hanoi”. Atmospheric Pollution Research. Volume 15, Issue 12, December 2024).

Chú thích

1. https://thanhnien.vn/tim-ra-thu-pham-khien-ha-noi-o-nhiem-khong-khi-nghiem-trong-185250121140853625.htm

2. https://kinhtedothi.vn/ha-noi-trung-binh-cu-8-nguoi-co-1-nguoi-so-huu-o-to.html

3. https://tuanvvu.github.io/onkk/2021-01-30-onkk-nguon-biomass/

4. https://hanoimoi.vn/dot-rac-tran-lan-huy-hoai-moi-truong-va-suc-khoe-xin-dung-tho-o-686529.html

https://baotainguyenmoitruong.vn/ha-nam-dot-rac-tap-ket-phe-lieu-gay-o-nhiem-moi-truong-383807.html

https://dantri.com.vn/xa-hoi/dan-2-tinh-ngat-tho-vi-bai-rac-o-xa-nong-thon-moi-chat-cao-nhu-nui-20230328073718112.htm

5. “Disentangling fine particles (PM2.5) composition in Hanoi, Vietnam: Emission sources and oxidative potential”. Science of The Total Environment.

6. “Intricate behavior of winter pollution in Hanoi over the 2006–2020 semi-climatic period”. Atmospheric Environment.

7. https://laodong.vn/xa-hoi/ha-noi-bep-than-to-ong-xuat-hien-tren-nhieu-tuyen-pho-trung-tam-870615.ldo

8. https://www.cleanairfund.org/news-item/how-china-is-tackling-air-pollution-with-big-data/#:~:text=HealthGlobal,power%20plants%20were%20shut%20down.”

9. https://www.unep.org/news-and-stories/story/once-enough-stain-shirt-collars-smog-lifting-over-greater-seoul#:~:text=Between%202007%20and%202020%2C%20the,public%20engagement%20on%20air%20quality.

Bài đăng Tia Sáng số 5/2025

Tác giả

(Visited 232 times, 3 visits today)