Ngẫu nhiên trong tính toán giành giải ‘Nobel’ khoa học máy tính
Nhà khoa học máy tính Avi Wigderson được biết tới bởi đã làm sáng tỏ vai trò của ngẫu nhiên trong các thuật toán và bởi nghiên cứu về sự phức tạp của nó.
Một người dẫn đầu trong lĩnh vực lý thuyết tính toán đã trở thành người thắng giải A. M. Turing, vốn được coi như giải ‘Nobel’ của khoa học tính toán.
Avi Wigderson tại Viện nghiên cứu tiên tiến (IAS) ở Princeton, New Jersey, từ lâu đã được biết đến là người kết hợp nhiều lĩnh vực trong nghiên cứu. Ông từng chia sẻ giải Abel, một giải thưởng hàng đầu của toán học, ba năm trước 1.
Ông mới nhận được giải Turing “cho những đóng góp mang tính nền tảng cho lý thuyết tính toán, bao gồm tái định hình biểu biết của chúng ta về vai trò của ngẫu nhiên trong tính toán, và bởi hàng thập kỷ dẫn dắt lý thuyết khoa học máy tính”, Hiệp hội Máy tính (ACM) ở New York loan báo vào ngày 10/4.
“Avi Widgerson là người khổng lồ trong lĩnh vực khoa học tính toán lý thuyết, đem lại những hiểu biết cơ bản cho những câu hỏi sâu sắc về cái gì có thể – hoặc không thể – tính toán một cách hiệu quả”, Jennifer Rexford, giáo sư kỹ thuật trường ĐH Princeton, nói. “Ông là một đồng nghiệp tuyệt vời và một người bạn lâu năm của trường”.
“Tôi vô cùng hạnh phúc và tôi không chờ đợi nhận được giải thưởng này”, Wigderson nói với Nature. “Tôi đang được đón nhận rất nhiều tình yêu và sự đánh giá từ cộng đồng của mình đến mức mà tôi nghĩ mình không cần đến các giải thưởng”.
“Một lực trí tuệ đỉnh cao”
Wigderson sinh ra ở Haifa, Israel, vào năm 1956. Ông nghiên cứu tại Technion — Viện công nghệ Israel ở Haifa và sau đó là ĐH Princeton; ông cũng làm việc tại IAS kể từ năm 1999. Ông được biết đến qua nghiên cứu về sự phức tạp của tính toán – với những công trình về những bài toán đã biết nhưng khó giải, thậm chí về cả nguyên tắc – và về sự ngẫu nhiên trong tính toán. Nhiều thuật toán thực hành có những lựa chọn ngẫu nhiên để đạt được mục tiêu một cách hiệu quả; trong một loạt nghiên cứu nền tảng năm 1990, Wigderson và cộng sự của mình đã chứng tỏ là các thuật toán quyết định thông thường có thể, về nguyên tắc, có thể hiệu quả tương đương các thuật toán ngẫu nhiên. Các kết quả này giúp xác nhận các thuật toán ngẫu nhiên có thể chính xác như các thuật toán xác định.
“Wigderson là một lực trí tuệ đỉnh cao trong khoa học tính toán lý thuyết”, theo đánh giá của chủ tịch ACM Yannis Ioannidis trong thông cáo báo chí. Thêm vào các thành công học thuật của Wigderson, ACM còn cho biết ông “thân thiện, nồng nhiệt và phóng khoáng”, điều khiến ông trở thành một cố vấn hoặc dễ mở rộng hợp tác với hàng trăm nhà nghiên cứu trên khắp thế giới. Wigderson từng cho là mình là một “nhà truyền giáo lớn” về niềm vui trí tuệ trong lĩnh vực của mình – ông đã biết một cuốn sách phổ biến khoa học về nó và đăng tải toàn bộ nội dung trên trang web của mình. “Tôi nghĩ lĩnh lực này có vai trò lớn lao và tôi hạnh phúc được giải thích về nó cho tất cả mọi người”.
“Nhìn chung, ông ấy là một nhân vật trung tâm bậc nhất trong khoa học tính toán lý thuyết,” theo Ran Raz, một giáo sư khoa học tính toán ở Princeton, và từng là học trò của Wigderson tại ĐH Hebrew ở Jerusalem.
Wigderson ảnh hưởng lên vô số sinh viên và nhà nghiên cứu, ông từng là cố vấn cho hơn 100 postdoc và hợp tác với một lượng học giả lớn. “Ông ấy luôn luôn có khả năng kết nối”, Raz nói.
“Ông ấy là người truyền cảm hứng,” Pravesh Kothari, một trợ lý giáo sư khoa học tính toán ở Princeton và cựu postdoct của Wigderson tại IAS nói. “Ông ấy là mô hình kiểu mẫu. Nếu tôi có thể có được 10% công việc như ông ấy làm thì đã là một thành công kỳ diệu cho sự nghiệp của tôi rồi”. Kothari cũng cho biết là Wigderson thường kêu gọi các nhà nghiên cứu trẻ hãy coi toàn bộ nỗ lực như thuộc về một lĩnh vực. Ông đã sử dụng cách tiếp cận này trong các công trình nghiên cứu của mình, kết nối các bài toán rời rạc ở những chuyên ngành thường được coi là không liên quan lại với nhau.
Giải thưởng Turing mang tên nhà toán học người Anh và người phá mật mã Alan Turing (1912–1954). Vào những năm 1930, ông đã đặt những nền tảng khái niệm về tính toán hiện đại.
“Tôi cảm thấy hoàn toàn thoải mái với toán học”, Wigderson nói và cho biết thêm, với tư cách là một nỗ lực trí tuệ thì khoa học tính toán lý thuyết không thể tách rời khỏi toán học. “Chúng tôi chứng minh các lý thuyết giống như các nhà toán học vậy.”
Bội Linh tổng hợp
Nguồn: doi: https://doi.org/10.1038/d41586-024-01055-y
————————————————–