Thầy Lê Văn Thiêm
Giáo sư Lê Văn Thiêm hình như chưa bao giờ tự nói về mình. Những người khác cũng chỉ viết về Ông từ sau khi Ông mất, ngày 3 tháng 7 năm 1991. Nhưng cả lúc Ông còn sống cũng như khi Ông đã ra đi, người ta thường nhắc tên Ông trong những câu chuyện hằng ngày, kể cho nhau nghe những giai thoại về Ông.
Những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống bao giờ cũng rất giản dị. Thầy Thiêm giản dị như những câu chuyện giản dị nhất của đời thường. Bởi thế, viết về Ông thật là khó. Lúc này đây, tôi như thấy Ông với ánh mắt thật hiền lành nhưng có pha chút giễu cợt khi thấy tôi định liệt kê những công việc Ông đã làm, những chức vụ Ông từng đảm nhiệm, như lệ thường khi viết về một vĩ nhân. Không dám trái ý Thầy, tôi xin được bắt đầu từ một kỷ niệm.
Đó là năm 1966, khi cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đang ở thời kì ác liệt nhất. Các trục giao thông chính, đường bộ, đường sắt bị phá hoại nghiêm trọng. Kênh Nhà Lê (con kênh được đào từ thời Lê, chạy gần song song với quốc lộ 1) được sử dụng để chuyên chở hàng hóa, vũ khí. Lòng kênh đã cạn, nhưng không thể dùng một lực lượng quá lớn để nạo vét dưới bom đạn suốt ngày đêm. Giáo sư Lê Văn Thiêm đã đề xuất dùng phương pháp nổ định hướng, tức là dùng mìn nổ dưới lòng kênh, nhưng bố trí sao cho hầu hết đất đá sau khi nổ rơi lên bờ kênh, chứ không phải rơi lại xuống lòng kênh. Ông đã dạy cho chúng tôi lý thuyết nổ định hướng, mà tư tưởng chủ đạo có thể tóm tắt như sau: Khi có một vụ nổ lớn, những vật chất gần tâm nổ chuyển động theo quy luật của chất lỏng lý tưởng (không nhớt, không nén được). Có thể mô tả chuyển động này nhờ lý thuyết hàm biến phức, là chuyên ngành toán học mà giáo sư nghiên cứu từ nhiều năm. Về mặt lý thuyết, chúng ta có thể điều khiển hoàn toàn vụ nổ, tức là sắp xếp sao cho vật chất quanh tâm nổ chuyển động theo một quỹ đạo định sẵn. Chúng tôi, một nhóm gồm bốn sinh viên toán năm thứ ba của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội hăm hở lên đường vào Nghệ An để cùng một đơn vị thanh niên xung phong thực hiện công việc đó. Ai cũng biết là chuyến đi đầy nguy hiểm, nên nhóm chúng tôi được bạn bè và bà con nơi trường sơ tán tiễn đưa khá “long trọng”. Nhưng kỷ niệm mà chúng tôi không bao giờ quên là, trước lúc chuyến xe phía Nam gần chuyển bánh, Thầy Thiêm hớt hải đạp xe tới, gọi tôi xuống dặn dò đôi lời và đưa cho tôi 72 đồng. Hồi đó, 72 đồng lớn lắm, bằng hai phần ba số tiền lương giáo sư mà Thầy vừa nhận xong. Chúng tôi hết sức cảm động, vì biết Thầy chỉ giữ cho mình số tiền tạm đủ sống đến kỳ lương sau. Chuyến đi đó đã để lại nhiều bài học lớn cho đời làm toán của chúng tôi, mà trước hết là bài học về việc đưa những kiến thức ở nhà trường vào phục vụ sản xuất và chiến đấu. Bài học đó, Thầy Thiêm dạy cho chúng tôi bằng chính cuộc đời làm toán của Thầy. Từ một chuyên gia hàng đầu trong một lĩnh vực toán học lý thuyết đang được xem là mốt nhất thời đó, giáo sư Lê Văn Thiêm đã chuyển hẳn sang nghiên cứu những vấn đề toán học đặt ra từ thực tiễn Việt Nam, mà một trong những vấn đề đó chính là nổ định hướng để nạo vét lòng kênh mà tôi vừa nhắc đến trên đây. Khi học năm thứ tư ở trường, chúng tôi lại được cùng một đơn vị thanh niên xung phong áp dụng phương pháp này để làm đường chiến lược trong rừng sâu. Giáo sư Lê Văn Thiêm đã biên soạn thành giáo trình hoàn chỉnh để hướng dẫn cho những người không có chuyên môn toán học sử dụng phương pháp đó.
Các giáo sư Frédéric Phạm, Lê Văn Thiêm và Phòng Tô pô – Hình học (khoảng năm 1981).
Giáo sư Lê Văn Thiêm là người như thế: Ông làm toán không phải vì danh vọng, tiền tài, mà chỉ đơn giản, đó là cách mà Ông có thể đóng góp phần mình cho đất nước. Giáo sư không bao giờ nhắc đến những đóng góp của mình trong nghiên cứu lý thuyết. Tôi là một trong những học trò trực tiếp của Ông từ khi còn là sinh viên năm thứ ba cho đến mãi sau này, nhưng chưa bao giờ tôi được nghe Ông kể về những công trình của chính Ông. Tôi chỉ biết về những công trình đó khi tôi đi sâu nghiên cứu hướng chuyên môn mà Ông là một trong những người có công khai phá. Đó là lý thuyết phân phối giá trị các hàm phân hình (hay còn gọi là lý thuyết Nevanlinna, theo tên của người khai sinh ra nó, nhà toán học Phần Lan đã một thời là chủ tịch Hội Toán học quốc tế). Trong nhiều hội nghị gần đây về lịch sử toán học, lý thuyết Nevanlinna được đánh giá là một trong những lý thuyết đẹp nhất của toán học thế kỷ 20. Giáo sư Lê Văn Thiêm chính là một học trò của Nevanlinna, và Ông là một trong những người đầu tiên cho lời giải của “bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna”. Công trình của Ông không chỉ được quan tâm vì đã chứng minh sự tồn tại nghiệm của bài toán đó, mà còn vì Ông đã đưa ra một phương pháp hoàn toàn mới để nghiên cứu vấn đề đặt ra. Trong những công trình khoa học và sách chuyên khảo gần đây trên thế giới, người ta vẫn còn nhắc công trình của Ông viết cách đây hơn nửa thế kỷ, và nhắc đến Ông như là một trong những người có công đầu trong việc xây dựng lý thuyết. Tôi bỗng nhớ hai câu thơ của cụ Nguyễn Du:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Để đời sau còn nhắc đến mình, khó lắm! Vậy mà giáo sư Lê Văn Thiêm hầu như không quan tâm gì đến điều đó. Sau khi viết vẻn vẹn có 5, 6 công trình (mà về sau trở thành nổi tiếng như đã nói trên), năm 1949, Ông từ bỏ chức giáo sư ở trường Đại học Zurich (Thụy Sĩ) để trở về với Tổ quốc Việt Nam đang kháng chiến. Với Ông, điều đó cũng thật là tự nhiên, như người ta phải thở hít khí trời.
Rời phương Tây, Ông đi máy bay về BangKok, rồi từ đó đi bộ về miền bưng biền Đồng Tháp. Từ Nam Bộ, Ông phải mất sáu tháng lặn lội trên những con đường rừng mới ra được đến chiến khu Việt Bắc. Những điều này tôi chỉ tình cờ được biết khi hỏi vì sao Ông có thói quen hút sáu điếu thuốc lào một lúc, và Ông giải thích rằng, vì đi bộ lâu trong rừng buồn quá, chẳng có thú gì hơn!
Nhóm nghiên cứu Toán (chụp trên sân thượng nhà 39 Trần Hưng Đạo, tháng 1/1969).
Ở Việt Bắc, giáo sư Lê Văn Thiêm đã cùng những nhà trí thức hàng đầu như Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa bắt tay vào nhiệm vụ xây dựng nền khoa học và giáo dục đại học của nước Việt Nam mới. Trong tay họ, hầu như chẳng có cuốn giáo trình bậc đại học nào, ngoài vài cuốn sách mà họ đã cố gắng mang theo mình khi rời nước Pháp. Vậy mà họ, thế hệ trí thức đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã làm nên một kỳ tích khiến thế giới phải kinh ngạc: ngay sau khi hòa bình lập lại, các trường đại học Việt Nam đều do cán bộ người Việt Nam giảng dạy, và họ dạy tất cả các giáo trình bằng tiếng Việt! Trong công lao chung ấy, giáo sư Lê Văn Thiêm, người Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Khoa học cơ bản và Trường Cao đẳng sư phạm ở chiến khu Việt Bắc đã góp phần không nhỏ.
Tên tuổi giáo sư Lê Văn Thiêm có thể gắn với rất nhiều chữ “đầu tiên”. Ông, cùng với giáo sư Phạm Tỉnh Quát (thân sinh giáo sư Frédéric Phạm) là những người đầu tiên mà vào năm 1941 thi đỗ vào trường École Normale Supérieure (phố d’Ulm, Paris), trường hàng đầu của Pháp trong việc đào tạo các nhà khoa học. Họ cũng là những người Việt Nam đầu tiên nhận được học vị Tiến sỹ quốc gia của Pháp năm 1948. Ông là tác giả của công trình toán học đầu tiên của người Việt Nam công bố trên tạp chí quốc tế, là người Việt Nam đầu tiên trở thành giáo sư toán học tại một trường đại học châu Âu (Zurich, 1949). Giáo sư Lê Văn Thiêm là Chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học Việt Nam, Tổng biên tập đầu tiên của hai tờ báo toán học của Việt Nam (Vietnam Journal of Mathematics và Acta Mathematica Vietnamica).
Có thể còn nhiều cái “đầu tiên” nữa, mà vì Ông không bao giờ nhắc tới nên ta cũng quên đi. Chỉ có một điều không ai quên được, đó là những gì Ông để lại cho nền khoa học Việt Nam. Chúng tôi, những học trò của Ông, luôn tự biết là mình đã có hạnh phúc lớn được học tập và làm việc với Ông. Không phải trong thời kỳ lịch sử nào cũng xuất hiện lớp người như Ông. Họ thường có mặt ở buổi đầu của cách mạng, khi mà niềm say mê lý tưởng đã vượt lên những toan tính cá nhân. Có lẽ vì thế mà cho đến tận cuối đời mình, Ông vẫn giữ được nụ cười hồn nhiên như trẻ thơ. □
Tiêu chuẩn duy nhất để GS. Lê Văn Thiêm chọn người về Viện là “giỏi”! Không kể người đó được đào tạo chuyên môn sâu nào trong Toán. Theo GS. Thiêm, người giỏi thì có thể bố trí vào phòng nào cũng được. Chỉ có điều, chẳng ai biết chắc tiêu chuẩn “giỏi” của GS. Thiêm là gì.
THẦY THIÊM MỜI UỐNG NƯỚC GS.
Hà Huy Khoái kể, nghe Thầy Thiêm đãng trí đã nhiều, nhưng chỉ nửa tin nửa ngờ.
Một lần, ông đến làm việc với Thầy. Ra về, đi được chừng 10 mét thì nghe tiếng Thầy gọi rất to phía sau:
– Ông Khoái ơi!
Giật mình, nghĩ có việc gì quan trọng.
Thầy nói: – Ông uống nước không? Lúc nãy làm việc mình quên chưa mời ông uống nước!
THẦY THIÊM ĐƯỢC MỜI ĐÁM CƯỚI
Thầy Thiêm nhà ở số 16 phố Hàng Chuối. Một hôm thầy nhận được giấy mời dự đám cưới của học trò, cũng là cán bộ tại Viện Toán học. Đám cưới được tổ chức ngay gần nhà thầy, số 18 phố Hàng Chuối. Khi Thầy đọc giấy mời mọi người nghe thầy lẩm bẩm:
– Cái cậu này lạ thật, mượn nhà mình làm đám cưới mà không nói với mình một câu. Mà thôi cũng được.
ĐƯỢC THẦY HOÀNG TỤY CHO TIỀN!
Cuối năm 1987, tôi được giấy mời làm việc ở IHES (Institut des Hautes Etudes Scientifiques, Bures-sur-Yvette) một năm. Trước ngày đi, thầy Tụy đến gửi bài báo, thư mang đi, rồi hỏi tôi:
– Khoái đã có tiền mang theo chưa?
– Chưa ạ.
Hồi đó, làm gì có quyền mang theo ngoại tệ, ngay cả khi đi nước ngoài! Đến nơi, phải chờ hoặc là “ta”, hoặc là “bạn” ra đón. Không có ai thì là “vấn đề lớn”, tự lo thôi.
Nghe thế, thầy móc túi đưa cho tôi 9 Fr và một vé tàu RER 2 zones để “phòng thân”.
Tôi đi tàu hỏa từ Moscow đến Paris, gare de l’Est, sáng 2/1/1988. Tất nhiên là ta và bạn đều không thấy ai đón mình! Cầm 9 Fr. mua vé về Bures, không đủ! Sực nhớ còn cái vé tàu, biết đâu đi hết thì vừa đủ tiền về Bures. Quả thật, đến ga Denfert Rochereau, mua vé về Bures thì vừa đúng 9 FR. May thế, không thì biết làm sao.
Sau này tôi nghĩ, thầy Tụy mang theo trong người 9 Fr và cái vé không phải là ngẫu nhiên. Chắc thầy đoán được người ít kinh nghiệm như tôi, thế nào cũng cần đến.
Ngày thường, thấy Thầy nghiêm khắc, chắc ít ai biết Thầy chu đáo, lo cho người khác tỉ mỉ đến thế.