Tính dễ bị tổn thương cấp hộ gia đình do ngập lụt ở TPHCM
Nguy cơ dễ bị tổn thương do ngập lụt ở các vùng đô thị đang gia tăng một cách nhanh chóng. Nguyên nhân của nó không chỉ do thiên tai mà còn do những cấu trúc không gian và xã hội của đời sống đô thị. Vậy tại một thành phố lớn như TPHCM, nguy cơ dễ bị tổn thương cấp hộ gia đình được định hình bởi sự giao thoa của hình thái đô thị và các điều kiện kinh tế xã hội hằng ngày như thế nào?

Thông qua sự kết hợp của các quá trình kinh tế xã hội, chính trị và văn hóa vận hành ở các quy mô khác nhau, hình thái đô thị đã ảnh hưởng lên các hộ gia đình và ngược lại, các hộ gia đình cũng góp phần định hình hình thái đô thị. Sự tương tác giữa các hộ gia đình và hình thái đô thị tạo ra những nguy cơ rủi ro mới và theo thời gian, khuếch đại những nguy cơ hiện có. Sự mở rộng đô thị quá nhanh ở TPHCM, thường ở những khu vực dễ bị lũ lụt, đã làm dấy lên tranh luận về sự thay đổi không gian ảnh hưởng đến rủi ro lụt lội ở quy mô hộ gia đình.
Trong bối cảnh này, tính dễ bị tổn thương do ngập lụt đang được định hình bởi sự bất bình đẳng, năng lực quản trị giới hạn và những biện pháp thích ứng kém hiệu quả. Trong khi các hộ gia đình đô thị thường dối mặt với tình trạng lũ lụt hơn là các hộ ở nông thôn nhưng cũng có quan điểm cho rằng sự khác biệt này không chuyển thành những khác biệt đáng kể về mức độ rủi ro giữa các hộ gia đình bị lũ lụt ảnh hưởng.
Do đó, các nhà nghiên cứu tại ĐHQG-TPHCM, ĐH Cần Thơ, ĐH Tübingen, ĐH Ludwig-Maximilians München và Trung tâm Khoa học địa lý GFZ Helmholtz mong muốn tìm hiểu sâu hơn về các vấn đề này và xây dựng các phản ứng hiệu quả trong quá trình chuyển đổi của TPHCM. Họ thực hiện nghiên cứu dựa trên mối quan hệ giữa hình thái đô thị cấp hộ gia đình và mức độ dễ bị tổn thương do lũ lụt, được đo lường các vùng khí hậu địa phương và các loại hình cấu trúc đô thị.
Một bức tranh bị phân mảnh
Họ đã khảo sát 560 hộ gia đình trong năm 2020 và 2023, một phần trong dự án chung Việt Nam-Đức về thiết kế các lộ trình thích ứng và phát triển tích hợp, đánh giá và quản trị các chiến lược giảm thiểu rủi ro lũ lụt trong các hệ thống đô thị-nông thôn đang thay đổi.
Kết quả cho thấy, so với năm 2020, các nhóm hộ gia đình đã có sự cải thiện đáng kể về việc tiếp nhận thông tin cảnh báo lũ lụt và tham gia vào các tổ chức, qua đó dẫn đến việc giảm số ngày nghỉ học và nghỉ làm, cũng như giảm số lượng người bị ảnh hưởng bởi các vấn đề sức khỏe do lũ lụt. Hơn nữa, các nhóm hộ gia đình cho thấy mức độ tiếp xúc với lũ lụt giảm, dẫn đến ít thiệt hại về nhà ở hơn.
Dựa trên số liệu năm 2020, họ đã phân các hộ gia đình vào bốn nhóm khác nhau về mức độ dễ bị tổn thương xã hội, bao gồm Nhóm 1 các hộ gia đình phụ thuộc (43,5%), Nhóm 2 các hộ gia đình có khả năng phục hồi (20%), Nhóm 3 các hộ gia đình nhạy cảm (20,6%), Nhóm 4 các hộ gia đình dễ bị tổn thương (15,9%); Về khả năng chịu lũ, Nhóm 1 các hộ gia đình có khả năng phục hồi (33%), Nhóm 2 các hộ gia đình chịu ảnh hưởng cao (27%), Nhóm 3 các hộ gia đình chịu ảnh hưởng trung bình (13%) và Nhóm 4 các hộ gia đình dễ bị tổn thương (27%).
Trong năm 2023, nhóm 4 là nhóm hộ gia đình dễ bị tổn thương về mặt xã hội và nhóm 3 là nhóm hộ gia đình dễ bị tổn thương về mức độ tiếp xúc với lũ lụt, trong đó, các hộ gia đình nhóm 4 dễ bị tổn thương về mặt xã hội do ít tài sản hơn, nhà ở cũ kỹ, cũng như sức khỏe suy giảm và việc nghỉ học hoặc nghỉ làm do ngập lụt.
Khi so sánh với các biện pháp đánh giá mức độ dễ bị tổn thương do lũ lụt, các loại hình cấu trúc đô thị hộ gia đình (năm 2020) cho thấy sự chồng chéo đáng kể giữa mức độ dễ bị tổn thương xã hội và mức độ nếm trải lũ lụt. Trong khi đó, các vùng khí hậu địa phương của hộ gia đình lại cho thấy mức độ dễ bị tổn thương xã hội theo chiều dọc hoặc mức độ phơi nhiễm lũ lụt theo chiều ngang (năm 2023). Điều này được phản ánh trong cả các cấp chỉ số và các chỉ số hồ sơ, cuối cùng dẫn đến các nhóm hộ gia đình khác nhau.
Trong đại dịch COVID, các hộ gia đình đã cải thiện khả năng chống chịu lũ lụt khi các chỉ số cho thấy hầu hết các hộ gia đình đều giảm mức độ dễ bị tổn thương về mặt xã hội và mức độ phơi nhiễm với lũ lụt, và một số thậm chí còn giảm đáng kể mức độ dễ bị tổn thương về mặt xã hội. Sự chuyển đổi này là do họ nhận được nhiều thông tin về lũ lụt hơn và ít gặp phải các sự kiện lũ lụt hơn.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại 36% các hộ gia đình dễ bị tổn thương xã hội, dù nhận được thông tin cảnh báo lũ lụt, 9% các hộ gia đình có chỉ số dễ bị tổn thương xã hội cao bởi số lượng thành viên trong gia đình bị suy giảm sức khỏe, nghỉ học hoặc nghỉ làm sau lũ lụt; 25,5% hộ gia đình có chỉ số tiếp xúc với lũ lụt cao do thường xuyên trải qua tình trạng ngập lụt kéo dài, mực nước cao hơn và các trận lũ lụt tái diễn, dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng hơn cho cả nhà ở và đồ đạc.
Vì vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng, các nhóm hộ gia đình, chẳng hạn như hộ gia đình dễ bị tổn thương, khá lớn, sống trong khu vực có sự thay đổi về không gian và thời gian. Người ta ngày càng chú ý đến vai trò của hình thái đô thị và sự tương tác của nó với các nhóm dễ bị tổn thương trong việc định hình các con đường chuyển đổi đô thị toàn diện.
Nguyên nhân gốc rễ của bức tranh phân mảnh
Di sản của quá trình đô thị hóa hậu thuộc địa ở TPHCM đã dẫn đến những ngôi nhà dày đặc dọc theo bờ sông và kênh rạch. Những hộ gia đình này có khả năng được chia thành ‘hộ gia đình nhạy cảm’ xét về mức độ dễ bị tổn thương về mặt xã hội và ‘hộ gia đình chịu tác động trung bình’ xét về mức độ dễ bị lũ lụt.
Hơn nữa, quá trình chuyển đổi đô thị chứng kiến sự tương tác giữa những người có quyền thiết kế và xây dựng thương hiệu cho mô hình mới của thành phố, và những người có thể và/hoặc sẽ khai thác lợi ích chính trị từ mô hình đó. Hình thái đô thị phụ thuộc vào hiệu quả vật chất, chẳng hạn như vật liệu nhà ở và quá trình xây dựng, cũng như thiết kế đô thị công bằng, chẳng hạn như khả năng chi trả và tính khả thi. Những yếu tố này phản ánh tình trạng kinh tế xã hội của hộ gia đình và khả năng thích ứng với lũ lụt liên quan đến nhà ở của họ.
Chỉ số thiệt hại về nhà ở, một tiêu chí của ‘hộ gia đình dễ bị tổn thương’ xét về khả năng tiếp xúc với lũ lụt cho thấy vật liệu xây dựng là nguyên nhân chính. Ngoài ra, quá trình chuyển đổi đô thị còn được thúc đẩy bởi giới có thu nhập cao và tình trạng đầu cơ bất động sản đã phâng nào gây ra tình trạng di dời và bấp bênh, và hệ quả là tạo ra các hộ gia đình dễ bị tổn thương.
Do đó, các nhà nghiên cứu cho rằng , nghiên cứu này cung cấp một cơ sở phân tích tính dễ bị tổn thương do lũ lụt với hình thái đô thị. Đây cũng là gợi ý cho công tác quy hoạch trong tương lai, trong quá trình phát triển và hiện đại hóa đô thị để thúc đẩy khả năng phục hồi, đặc biệt là cho các nhóm dễ bị tổn thương, thông qua việc chia sẻ thông tin và tăng cường liên kết hộ gia đình – chính quyền địa phương – quốc gia.
Kết quả được nêu chi tiết trong bài báo “Exploring the relationship between urban morphology types and household-level flood vulnerability profiles in Ho Chi Minh city”, xuất bản trên tạp chí International Journal of Disaster Risk Reduction.
Nguồn: https://doi.org/10.1016/j.ijdrr.2025.105911
