Truyện ngắn Sadegh Hedayat: Cái chết chỉ là cái chết

Cái chết chỉ là cái chết thôi. Cái chết không khiến con người ta thành thiên thần hay ác quỷ; cái chết không đưa linh hồn lên thiên đường hay địa ngục; cái chết chỉ dẫn tới đúng một điều là cái chết.

Minh họa của Edmund Dulac trong cuốn Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam. Ảnh: Getty Images

1.

Nào, hãy đi cùng lão Khayyam, mặc kệ đám nhà Hiền Triết

Bàn chuyện nhảm; chỉ một điều chắc chắn thôi, rằng Đời ngắn ngủi

Chỉ một điều chắc chắn thôi, còn lại đều là nói Dối;

Bông hoa mới hé nụ đã vĩnh viễn tàn rồi.

Xin phép được dịch một trong những bài rubáiyát, thể thơ tứ tuyệt Ba Tư, của thi sĩ – nhà thiên văn học thế kỷ 11-12, Omar Khayyám, trước khi bắt đầu bài viết này về truyện ngắn của Sadegh Hedayat. Đơn giản vì ai cũng biết tượng đài văn chương Iran thế kỷ 20 rất yêu thơ Khayyám. Mười tám tuổi, Hedayat đã viết những công trình nghiên cứu về Khayyam, trong đó cho rằng: “Những suy nghĩ u ám của Khayyam, những nghiền ngẫm của ông về sự mong manh của cuộc đời, sự bất định của thế giới, sự nhận thức của ông về giới hạn của tri thức, và đặc biệt là quan sát của ông về sự bất công của con người, sự đạo đức giả của những kẻ quanh mình, đã dẫn ông đi từ hoài nghi đến bi quan. Thế là, ông đánh mất nhiệt huyết cho cuộc đời; tài năng nghệ thuật của ông hướng đến những ý nghĩ trầm uất, thứ không ngừng tạo nên cho ông cơn ác mộng hành hạ.”

Nhưng có sự khác biệt khi đọc thơ Khayyám và khi đọc văn chương của của Hedayat: thơ Khayyám cho người ta một lý do để tiếp tục sống – khi không có gì để bám víu, dẫu là cái đẹp [Bông hoa mới hé nụ đã vĩnh viễn tàn rồi], dẫu là tôn giáo [Thuở bé thơ hăm hở theo thánh hiền/ Nghe tranh biện toàn những chuyện lớn lao / Nhưng khi ra về vẫn là cánh cửa ấy / Khi bước ra chẳng khác lúc bước vào], dẫu là hứa hẹn về kiếp sống khác [Tôi phái hồn mình vào miền Vô Ảnh / Đợi một lá thư từ Kiếp sau gửi tới: / Và Hồn về với tôi mang theo lời gọi: / “Chính trong ta đây, Thiên đường và Ngục tối”] – thì người ta vẫn có lý do để sống: có hiện tại, có rượu, có niềm khoái lạc của nhân gian. Khayyám quả thật đã sống tới hơn 80 tuổi.

Nhưng đọc Hedayat thì khác. Bản thân ông sống không hạnh phúc và chết cũng buồn. Ông đọc ra ở Kafka sự “không một mối liên hệ nào ngoại trừ với hư không” [hình như là ông đang đọc chính mình chứ không chỉ đọc Kafka?]. Ông tước bỏ từ từ từng lý do để sống; cho đến khi cuộc sống trở nên không thể sống được. Thậm chí cuộc sống đã chấm dứt ngay trong trạng thái còn sống. Ông gọi đó là tình trạng “chôn sống”. Tình trạng ấy là thế nào? Là khi con người không còn cả ao ước hay oán hận. Đó là một cuộc sống ngay từ đầu đã sai: “Tôi sinh ra đã ích kỷ, vụng về, khốn khổ. Giờ, chẳng có cách nào để quay ngược trở lại và sống theo cách khác.” Dazai Osamu mất tư cách làm người; còn Hedayat thậm chí mất tư cách làm bất cứ thứ gì: “Trong đời, ta phải làm hoặc là thiên thần, hoặc là con người, hoặc là thú vật. Tôi chẳng trở thành điều gì trong số những điều ấy.” [Truyện ngắn Buried Alive / Chôn sống / Zendeh be Goor]. Hedayat còn tạo ra một nhân vật chết vì quên không thở.

Hedayat vĩnh quyết với cuộc đời theo cách triệt để nhất.

2.

Trong một truyện ngắn thoạt trông rất đậm tính hiện thực chủ nghĩa mang tên The legalizer / Người hợp thức hoá hôn nhân / Mohallel, hai người đàn ông gặp nhau ở mộtquán cafe sâu trong lòng núi. Họ tàn tạ như nhau, lang thang như nhau, cơ nhỡ như nhau, và họ cũng tàn tạ như thế giới này. Mở đầu câu chuyện, họ than thở về sự điêu tàn của thế giới, họ nhớ thế giới giàu có phong nhiêu ngày xưa, cái thuở bánh mì dài như con người, chẳng ai thiếu tiền, một đồng rial mua chục trứng. Rồi họ kể đời mình cho nhau nghe, vì sao họ ra nông nỗi này, vì sao cù bất cù bơ. Để rồi đến kết cục, họ nhận ra mình đều từng yêu một người đàn bà, họ từng là kẻ địch. Kẻ thua cuộc nhiều năm trước thầm sướng vui, hoá ra kết cục kẻ chiến thắng cũng chẳng khấm khá hơn.

Những người đàn bà luôn không chỉ là đàn bà trong truyện của Hedayat. Đàn ông khao khát đàn bà, bị đàn bà ám ảnh, và cũng căm thù họ. Borges có tứ thơ: “số phận của Pedro Salvadores gây ấn tượng với ta như một biểu tượng về điều gì đó mà ta suýt hiểu, nhưng chẳng bao giờ hiểu”. Những người đàn bà trong Hedayat cũng là kiểu biểu tượng như thế. Có thể họ là cuộc đời. Có thể họ là cái chết. Có thể họ là kho báu. Có thể họ là chân lý. Có thể họ là ảo ảnh. Có thể họ là sự cứu rỗi. Có thể họ là ác quỷ. Có thể họ là thần thánh. Có thể họ là câu hỏi. Có thể họ là câu trả lời. Dù là gì đi nữa thì họ cũng là thứ con người muốn có được, tưởng như có được, nhưng lại không có được, và cuối cùng phá huỷ cả thể xác lẫn linh hồn mình vì không có được. Chiếm hữu hay không chiếm hữu được người đàn bà, chiến thắng hay thua cuộc trong cuộc đời, cuối cùng họ vẫn không thể sống nổi trong cuộc đời ấy

Người đàn bà ảo ảnh bị phân xác rồi giấu trong vali và người vợ kiêm “ả đĩ” bị đâm chết trong tuyệt tác Con cú mù / The Blind Owl / Boof-e koor chẳng phải cũng là một biểu tượng như thế. Hay tương tự với con mannequin mà chàng du học sinh Iran sống ở Pháp đã mua về trong truyện ngắn Puppet behind the Curtain / Con rối sau màn / Arusak-e posht-e parde. Mannequin, tức chỉ là búp bê. Dù chỉ là một con búp bê, vô tri, vô giác, vô ngôn, vô tính, nhưng trong mắt anh nó là đàn bà, anh yêu bộ ngực của nó, yêu bờ hông của nó. Khi anh trở về quê nhà, vì con búp bê, anh từ hôn người em họ, thề yêu con búp bê trọn kiếp. Khi quyết định phải giết con búp bê, một đêm nọ, anh phát hiện ra con búp bê có hơi ấm, nó bước lại về phía anh, anh kinh hoàng bắn nó, nhưng thứ chết đi không phải con búp bê mà là vị hôn thê cũ của anh.

Quay lại với The legalizer, motif hai người đàn ông gặp nhau chuyện trò trở lại ở một truyện ngắn khác, chưa thành hình hài hoàn chỉnh của Hedayat, bởi ông tự vẫn ở tuổi 48, bằng khí gas, ở Paris, một cái chết gây rúng động Tehran, trước khi hoàn thành truyện. Ta biết về tác phẩm chỉ qua lời chứng của bạn ông. Tên truyện dự định là Động đất. Truyện kể về hai người lữ khách ngồi trên một băng ghế gỗ trong quán café, cùng uống trà, hút shisha, bàn chuyện buôn bán đất đai, nào nhà, nào chuồng, nào nhà khách, nào trang trại. Thế rồi một trận động đất diễn ra, bỗng nhiên không còn dấu hiệu nào của quán café, của khu vườn, còn băng ghế họ đang ngồi thì bấp bênh giữa hai hố nứt toác trên mặt đất.

Ta có thể hỏi: Đâu là hiện thực? Thế giới có nhà có vườn, hay thế giới có động đất? Có quan hệ nhân quả nào giữa hai thế giới ấy hay không? Có phải thế giới này phủ định thế giới kia? Có phải động đất chấm dứt sự tồn tại của quán café? Hay quán café ngay từ đầu đã không tồn tại? Rất có thể ngay từ đầu thế giới phong lưu nơi bánh mì dài như con người, chẳng ai thiếu tiền, một đồng rial mua chục trứng cũng chẳng hề tồn tại. Những hố nứt là trạng thái nguyên bản nhất.

Tranh của nghệ sĩ Iran, Alireza Asanloo vẽ về cuộc gặp tưởng tượng với Sadegh Hedayat. Ảnh: Iranart.news

3.

Khayyám có một phương thức chống lại sự hư vô: uống rượu.

Uống đi! vì ngươi chẳng biết mình từ đâu đến, vì sao mà đến;

Uống đi! vì ngươi chẳng hay mình đi làm gì, và sẽ đi đâu.

Với Hedayat: Ngoài cái chết, không có thuốc trị cho nỗi khổ đau của tôi.

Ông viết như vậy trong truyện ngắn Three drops of blood / Ba giọt máu / Se Qatre Khun. Truyện ngắn này thuộc bộ ba truyện ngắn báo hiệu sự ra đời của Con cú mù, cùng với Puppet behind The Curtain Kẻ giết dục vọng của mình / The Man Who Killed His Passion  / Mardi ke nafasesh ra kosht.

Three Drops of Blood bắt đầu bằng giọng kể của một người điên. Ahmad sống trong trại thương điên, anh ta quan sát những kẻ sống quanh mình, trong đó có người quản trại luôn nhìn chằm chằm vào gốc một cây thông, nơi Ahmad biết đã từng nhỏ xuống ba giọt máu của một con mèo do ông ta ra lệnh giết. Sau đó, Ahmad kể về quá khứ, thời tiền-trâu quỳ, anh ta có người bạn thân cũng từng giết một con mèo đực cặp kè với con mèo cái mình nuôi. Sau đó, con mèo cái tha xác bạn tình bỏ đi mất. Kể từ đó, anh ta thường xuyên nghe tiếng con mèo đực kia kêu. Mỗi lần nghe thấy, anh ta lại chĩa súng về phía nơi từng bắn nó, và lần nào cũng vậy, có ba giọt máu nhỏ xuống gốc thông.

Cái chết chỉ là cái chết thôi. Cái chết không khiến con người ta thành thiên thần hay ác quỷ; cái chết không đưa linh hồn lên thiên đường hay địa ngục; cái chết chỉ dẫn tới đúng một điều là cái chết.

Cái chết được trao cho rất nhiều kỳ vọng trong truyện của Hedayat. Người ta tìm đến nó khi không còn tìm được điều gì khác nữa trên thế giới này. Cái chết chịu gánh nặng phải chấm dứt được những ảo ảnh, nhưng thường thì nó gây nên nhiều ảo ảnh ghê gớm hơn. Thậm chí những đối tượng bị giết trong Hedayat thường không có đầy đủ phẩm chất của một sự hiện tồn đích đáng: một con mèo hoang; con mannequin; một người phụ nữ chỉ có mặt trong những ảo ảnh [Con cú mù]; một người đàn ông vứt bỏ thế giới để sống trong một căn phòng tối [Căn phòng tối / The dark room]; một con chó hoang bên vệ đường… Vì cái chết xảy ra với những đối tượng sống cũng như chết nên sự chết chẳng mang tới tính cứu chuộc nào.

Một trong những truyện ngắn hay nhất của Hedayat, The Man who Killed His Passion, có tính đăng đối với những bài rubáiyát của Khayyám. Ở đây, ta cũng có một kẻ “thuở bé hăm hở theo thánh hiền”. Người đàn ông ấy nguyện sống đời khổ hạnh, sùng đạo, kiên tín. Anh ta theo học một bậc thầy tu Ả Rập. Tất nhiên, một ngày nọ, anh ta phát hiện ra, ông thầy của anh ta hoá ra chẳng phải bậc đắc đạo gì, chỉ là phàm phu tục tử. Chán đời, vỡ mộng, anh ta vào một quán rượu, lần đầu tiên trong đời hiểu hết tất cả những mật tự trong thơ ca Sufi: “Anh hiểu rằng tất cả những ai cấm đoán thế giới trần tục này đã lấy ngôn từ và phép so sánh, ví von của họ từ chính thế giới trần tục ấy.” Anh ngủ với một người đàn bà làm quen trong quán rượu. Hai ngày sau, anh ta tự sát, “không rõ nguyên nhân”. Có phải sự xung khắc giữa lý do mà ta nên sống và lý do thật sự mà ta phải sống khiến anh ta không sống được nữa? Tại sao ngay giây phút nhìn thấy cái đẹp của cuộc sống thì anh ta chọn chết? Ta không biết anh ta tìm gì ở cái chết, nhưng dù là tìm gì thì hẳn anh ta cũng đặt quá nhiều kỳ vọng vào việc cái chết: anh ta ban đầu muốn tiêu diệt bản ngã của mình để đạt tới một sự siêu việt hơn, nhưng cuối cùng không có sự siêu việt nào cả, anh ta tiêu diệt bản ngã của mình cũng là tiêu diệt chính mình.

Cái chết chỉ là cái chết thôi. Cái chết không khiến con người ta thành thiên thần hay ác quỷ; cái chết không đưa linh hồn lên thiên đường hay địa ngục; cái chết chỉ dẫn tới đúng một điều là cái chết.

4.

Trầm uất, bất mãn với bầu không khí xã hội ở Iran, Sadegh Hedayat quyết định tự sát. Ông không muốn chết ở Iran, không muốn làm ô uế đất mẹ, vì thế, Hedayat bán sạch đồ đạc, bay sang Paris.

Một trong những bút tích cuối cùng của Hedayat là một tác phẩm nói về Kafka: Thông điệp của Kafka / The Message of Kafka. Viết về Kafka, Hedayat nhận định: “Lý do nhiều người giận dữ với Kafka và gợi ý đốt bỏ sách ông là bởi ông không đưa ra hứa hẹn giả dối nào, cũng không đưa ra bất cứ cái nạng chống nào cho con người. Ngược lại, ông lật tẩy rất nhiều ý tưởng lừa lọc, và giúp chặn đứng đường đi tới thiên đường nguỵ tạo.”

Hẳn ông đang nói về Kafka nhưng cũng nói về chính mình. Sách ông cũng từng bị cấm. Việc chọn lấy cho mình cái chết là điều không thể khác với Hedayat, khó có thể tưởng tượng một số phận khác cho ông, người từng hình dung ra thế giới này toàn những kẻ không đầu. Cái chết có thể không cứu chuộc được gì, thậm chí không cắt đứt ảo ảnh hay khổ đau, thì ít ra nó cũng là một kiểu nghệ thuật.

Có người nói: Cái chết của Hedayat là tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông.

* Bài đăng Tia Sáng số 23/2025

Tác giả

(Visited 10 times, 10 visits today)