Từ MRI đến thuốc Ozempic: Những đột phá giải thích tại sao phải bảo vệ khoa học cơ bản
Trong những thời kỳ căng thẳng về tài chính này, các bên tài trợ phải ghi nhận được một điều rằng những khám phá lớn lao thường đột sinh từ công trình được thực hiện để tìm kiếm những điều hoàn toàn khác biệt.

Khắp nơi trên thế giới, ngân sách dành cho nghiên cứu cơ bản – những nghiên cứu chủ yếu được thực hiện để gia tăng tri thức cho chính khoa học mà không kỳ vọng vào khả năng đền đáp lại phía đầu tư – đang phải hứng chịu sức ép ở mức độ chưa từng có, ít nhất trong một thế hệ.
Tại Mĩ, nhà tài trợ chính cho nghiên cứu cơ bản, Quỹ Khoa học quốc gia (NSF) trong năm nay đã chấm dứt khoảng 1.600 khoản taig trợ trị giá 1 tỉ USD, một phần lớn trong tổng ngân sách 10 tỉ USD. Và tổng thống Mỹ Donald Trump đã đề xuất cắt giảm ngân sách này xuống còn 55%. Trong khi đó, ở châu Âu, màn cạnh tranh tìm tài trợ của các nhà khoa học sẽ chỉ còn nước trở nên xấu hơn, nếu EU thực thi một kế hoạch tài trợ đã được lập trình sai về việc xếp nghiên cứu về an ninh quốc phòng vào chương trình tài trợ cho khoa học không chỉ lớn nhất châu Âu mà còn từng chỉ bao gồm các dự án nghiên cứu dân sự, Horizon Europe.
Trung Quốc có thể phấn khởi với xu hướng này. Tuần trước, các nhà lãnh đạo quốc gia này đã thông báo là tài trợ cho nghiên cứu cơ bản sẽ gia tăng trong kế hoạch quốc gia năm năm tới, giai đoạn 2026 đến 2030. Nhưng ở khắp nơi, khi xung đột toàn cầu và áp lực lên chi tiêu công đang ngày một gia tăng, chúng ta đang nghe thấy những nhà tài trợ, tử Australia đến Anh, đều lập luận rằng nghiên cứu với tác động trực tiếp đến thế giới thực – lý tưởng về kinh tế – được ưu tiên hơn nghiên cứu cơ bản. Nói cách khác, nghiên cứu cơ bản có thì tốt nhưng có thể không cần thiết trong những điều kiện khó khăn.
Nature cũng đã điểm qua những đột phá mà thế giới được hưởng từ nghiên cứu cơ bản, như một lời nhắc nhở tại sao cách tiếp cận này lại sai lầm về nhận thức. Nó cho thấy nghiên cứu cơ bản làm thay đổi thế giới kiểu ‘blue skies’ (năm 1869, nhà vật lý Ireland John Tyndall đã thực hiện một nghiên cứu mà ban đầu bị coi là vô ích với câu hỏi ‘tại sao bầu trời có màu xanh’ nhưng đã dẫn đến nhiều phát hiện lớn như kiểm soát vi khuẩn, hiểu biết về không khí sạch…) thường chủ yếu hoặc toàn bộ tập trung vào việc có thêm tri thức, và chỉ sau đó mới có thể có được những ứng dụng rộng rãi. Trong một số trường hợp, nhiều khám phá đã làm cải thiện cuộc sống hoặc cứu hàng triệu mạng người.
Phản ứng chuỗi polymerase – thứ khoa học cơ bản nằm sau các xét nghiệm PCR vẫn dùng để phát hiện vi khuẩn và virus đã trở thành một phần của đời sống thường ngày trong đại dịch COVID-19 – đã bắt nguồn từ công trình nghiên cứu về vi khuẩn được tìm thấy trong những suối nước nóng của các nhà vi sinh học Hudson Freeze và Thomas Brock tại ĐH Indiana ở Bloomington. Chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI) nảy sinh từ nghiên cứu về các đặc trưng vật lý cơ bản của hạt nhân nguyên tử, và các nghiên cứu về thằn lằn có độc đóng vai trò chính trong phát triển các loại thuốc như Ozempic bắt chước hormone GLP-1. Các ti vi màn hình phẳng có gốc rễ từ nghiên cứu hóa học được phân lập từ các củ cà rốt.
Có thể khẳng định là, về toàn thể, môi trường đầu tư cho nghiên cứu ngày nay chỉ có một chút tương đồng với các thập kỷ trước. Trong thế kỷ 20, nhiều nhà khoa học đã thực hiện nghiên cứu bên cạnh công việc giảng dạy và bổn phận hành chính của họ mà không cần nhận các khoản tài trợ lớn mà giờ là yếu tố chính của các hệ thống nghiên cứu, đặc biệt ở các quốc gia có thu nhập cao. Đầu tư công lớn hơn khiến các nhà hoạch định chính sách và nhà tài trợ xem xét nhiều hơn, mong muốn nhiều hơn về những phần hồi đáp cho các khoản đầu tư này.
Điều này cũng dúng đắn và phù hợp: không ai muốn thấy tiền thuế của dân lại bị tiêu sai. Nhưng những khám phá làm thay đổi thế giới thường xuất hiện một cách bất ngờ và sau nhiều năm – hoặc hàng thập kỷ – từ nghiên cứu cơ bản vốn làm mở rộng hơn nữa tri thức của chúng ta về thế giới và cách nó vận động. Và bởi các công ty tư nhân đã ràng buộc từ nhu cầu được đáp trả trong ngắn hạn, họ hiếm khi đem đến những khoản tài trợ dài hạn, ít ràng buộc cho nghiên cứu cơ bản có thể giúp phát hiện ra những điều mà chúng ta còn chưa biết khi chúng ta tìm kiếm.
Tất cả các chính phủ cần có những lựa chọn về cách tốt nhất trong chi tiêu công. Trong trường hợp của khoa học, cần thảo luận với cộng đồng khoa học để điều chỉnh sự cân bằng tài trợ trong những lĩnh vực khác nhau, cắt giảm tài chính với một số lĩnh vực và gia tăng cho những lĩnh vực khác. Nhưng trước khi đi đến những quyết định này, cần loại bỏ hai điều hoang đường: nghiên cứu cơ bản ít quan trọng hơn những dạng nghiên cứu khác, và không có tác động dài hạn. Các phát hiện đột phá cần thời gian, nó nhắc nhở chúng ta là các quyết định tài trợ không nên bỏ qua những nghiên cứu dài hạn, khó nhọc cần được chứng minh theo thời gian, để đặt nền tảng cho hiểu biết, sự tiến triển và, cuối cùng, cho một xã hội tốt đẹp hơn.
Thanh Phương dịch từ Nature 646, 1026 (2025)
Nguồn: doi: https://doi.org/10.1038/d41586-025-03470-1
