Điện hạt nhân và sự đồng thuận xã hội: Tại sao lại quan trọng?
Một chương trình phát triển điện hạt nhân bền vững và an toàn không chỉ dựa vào yếu tố công nghệ mà còn phụ thuộc cả yếu tố phi công nghệ, trong đó có sự đồng thuận và ủng hộ của xã hội.

“Lần trở lại này với điện hạt nhân cần phải bài bản, vững chãi và minh bạch hơn”, chuyên gia Hoàng Văn Sính, người từng nhiều năm làm việc tại Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), đã chia sẻ góc nhìn về sự tái khởi động chương trình hạt nhân của Việt Nam trong cuộc họp tổng kết năm 2024 của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên ông nhắc đến ba tiêu chí này. Trong lịch sử 70 năm phát triển của điện hạt nhân thế giới, ba tiêu chí “bài bản, vững chãi và minh bạch” luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự thành bại của một dự án điện hạt nhân. Bởi không bài bản thì khó vững chãi, mà khó vững chãi thì khó công khai minh bạch mà khó minh bạch thì khó thuyết phục được các bên tham gia đóng góp vào một dự án có thể tạo ra một di sản tầm cỡ trăm năm.
Sự tham gia của các bên vào một dự án điện hạt nhân vẫn được hiểu thuần túy là chính quyền, giới công nghiệp hay công nghệ nhưng có một bên ít được thấy, ít được quan tâm nhưng đóng vai trò quan trọng không kém, đó là công chúng. Nếu lội ngược dòng lịch sử, có thể thấy điện hạt nhân là một công nghệ đặc biệt, sự phát triển thăng trầm của nó gắn liền với những cuộc tranh luận, thậm chí phản đối của công chúng. Dĩ nhiên, hầu như bất kỳ công nghệ mới nào cũng đứng trước khả năng bị công chúng phản đối như thuở hồng hoang của công nghệ dệt, song chỉ một số ít trong những phản đối đó xuất phát từ bản chất của công nghệ. Bất chấp giải thích của các chuyên gia về xác suất xảy ra các sự cố nặng như tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima thường ở mức thấp hơn 10-6 và những tiêu chuẩn về an toàn của các công nghệ thế hệ sau đã được áp dụng để tránh những trường hợp sự cố nặng1 thì những cách hiểu sai lệch về điện hạt nhân vẫn luôn tồn tại.
Chỉ khi có được sự đồng thuận xã hội (social acceptance), công nghệ hạt nhân mới có đầy đủ điều kiện hoạt động, qua đó phát huy được vai trò của mình trong đời sống kinh tế, xã hội.
IAEA từng nhấn mạnh, điện hạt nhân không chỉ đòi hỏi thành công về mặt kỹ thuật mà còn phải được xã hội chấp thuận. Nếu sự chấp thuận của xã hội có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của một công nghệ thì việc tạo dựng một nhà máy điện hạt nhân để nó không chỉ là một cơ sở cung cấp điện năng mà còn là di sản thế kỷ sẽ cần đến sự ủng hộ và tham gia của công chúng trong trọn vòng đời nhà máy.
Sự đồng thuận xã hội về điện hạt nhân
Với năng lực gần như vô tận của mình “hạt nhân không phải là người lính mà là người thợ”- câu nói nổi tiếng của Igor Kurchatov – hứa hẹn mang lại giải pháp cho những thách thức mang tính toàn cầu như ô nhiễm không khí, vi nhựa, ung thư, xói mòn đất đai, côn trùng sâu hại mùa màng…, và nhất là một giải pháp năng lượng phát thải thấp. Sau “mùa đông hạt nhân”, sự phục hưng đã trở lại với công nghệ quan trọng này trong bối cảnh thế giới cần đến những công cụ tin cậy để chống biến đổi khí hậu. Năm 2024, điện hạt nhân được EU xếp vào danh sách công nghệ xanh, những công nghệ được ưu tiên tài chính từ các nhà đầu tư quốc tế.
Để đi đến được cột mốc quan trọng này, công nghệ hạt nhân đã phải đối diện với rất nhiều phản đối và tranh cãi, đặc biệt thời kỳ hậu Fukushima. Sự phản đối của công chúng với điện hạt nhân, cả với việc xây mới các nhà máy cũng như đòi đóng cửa các nhà máy đang hoạt động, đã xuất hiện ở tại nhiều nơi trên thế giới như Pháp vào năm 2007, Nga vào năm 2010, Ấn Độ năm 2012, Đài Loan 2014…, theo thông tin của ông Arkady Karneev, Giám đốc Truyền thông Rosatom khu vực châu Á trong khuôn khổ Ngày hội Khoa học và Hạt nhân ở ĐH Bách khoa HN, diễn ra vào ngày 19/5/2016. Do đó, ông cho rằng, kể từ Fukushima, để các dự án điện hạt nhân triển khai thuận lợi, các quốc gia cần phải quan tâm hơn nữa đến vai trò của công chúng so với trước đây, cụ thể là cần đạt được sự đồng thuận xã hội (social acceptance). Chỉ khi có được sự đồng thuận xã hội, công nghệ hạt nhân mới có đầy đủ điều kiện hoạt động, qua đó phát huy được vai trò của mình trong đời sống kinh tế, xã hội.

Tại sao có nhiều ưu điểm đến thế mà công nghệ hạt nhân vẫn chưa chiếm lĩnh được sự tin cậy của đông đảo công chúng và vẫn phải hứng chịu nhiều hiểu lầm đến thế? Theo cuốn sách mới được xuất bản năm 2023 của Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ Laying the Foundation for New and Advanced Nuclear Reactors in the United States (Đặt nền tảng cho các lò phản ứng hạt nhân mới và tiên tiến ở Mỹ), sự đồng thuận xã hội là sự kết hợp phức tạp giữa dư luận, niềm tin vào chính quyền, cảm nhận về sự an toàn, lợi ích kinh tế và phản ứng cảm xúc đối với công nghệ hạt nhân. “Thông thường, khi đánh giá lợi ích dễ nhận thấy của năng lượng hạt nhân, kết quả cho thấy là công chúng đánh giá vô cùng thấp. Kết luận về việc công nghệ hạt nhân tạo ra phản ứng mạnh trong công chúng đã được lặp đi lặp lại theo thời gian và trên khắp các quốc gia”2. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá các hoạt động phản đối trong lịch sử phát triển của công nghệ hạt nhân, ông Arkady Karneev cho rằng nguyên nhân dẫn đến những nhận thức tiêu cực và sai lệch về vai trò của công nghệ này trong đời sống kinh tế xã hội phần lớn do bốn yếu tố: 1. Thiếu kiến thức cơ bản và hiểu lầm về công nghệ hạt nhân và bức xạ; 2. Ảnh hưởng từ những hoạt động thử nghiệm vũ khí hạt nhân; 3. Ảnh hưởng từ các tai nạn nghiêm trọng tại nhà máy điện hạt nhân Three-Mile Island (1979), Chernobyl (1986), và Fukushima (2011); 4. Hoạt động của các phong trào phản đối hạt nhân.
Thực tế nhiều năm sau cũng phản ánh đúng những điều mà ông Arkady Karneev trao đổi. Tại Trung Quốc, quốc gia có chương trình phát triển điện hạt nhân hiệu quả hàng đầu thế giới nhằm giải quyết hai vấn đề chính là cơn khát năng lượng và tình trạng ô nhiễm không khí do điện than, các nhà nghiên cứu ĐH Tế Nam đã khảo sát tìm hiểu về sự chấp nhận của xã hội với điện hạt nhân từ góc nhìn của người dân sống trong phạm vi 50 km cách hai nhà máy điện hạt nhân Shidaowan, Haiyang (Sơn Đông). Kết quả cho thấy, phần lớn các mối lo ngại về điện hạt nhân đều rơi vào nguyên nhân số một và nguyên nhân số bốn: chỉ 43% người được hỏi có hiểu biết về điện hạt nhân trong khi 75% thì lo ngại về sức khỏe của công nhân và người dân địa phương, 79% lo sợ về ô nhiễm phóng xạ, phơi nhiễm nhiệt từ nước làm mát, nhiên liệu đã qua sử dụng; 90% nhận thấy tai nạn Fukushima ảnh hưởng đến quan điểm của họ về phát triển điện hạt nhân, dẫu vậy một nửa số này cho biết tác động này ở mức nhỏ3.
Thậm chí tại Nga, một trong những cường quốc về công nghệ điện hạt nhân, công chúng cũng có những nhìn nhận tiêu cực không tránh khỏi về loại năng lượng này. Ông Arkady Karneev đã dẫn một khảo sát về sự đồng thuận xã hội với điện hạt nhân, được tiến hành vào tháng 4/2011, với kết quả 12% ủng hộ quan điểm cần loại bỏ hoàn toàn điện hạt nhân khỏi đời sống, 27% cho rằng cần hạn chế các nhà máy điện hạt nhân hoạt động, 30% đồng ý với tình trạng các nhà máy điện hạt nhân hiện có tại Nga và 22% thấy nên tích cực phát triển. Ba năm sau khi những tác động mang tính cảm xúc về sự kiện Fukushima phai nhạt dần thì quan điểm của người Nga về điện hạt nhân bắt đầu thay đổi. Tỷ lệ người phản đối giảm xuống còn 7%, tỷ lệ cho rằng cần hạn chế còn 10%, và tỷ lệ người đồng ý tăng lên 35%, 37% cho rằng cần tích cực phát triển.
Sự đồng thuận xã hội cần được duy trì trong toàn bộ vòng đời nhà máy điện hạt nhân chứ không phải một thời điểm.
Sự đồng thuận xã hội về điện hạt nhân đúng là không bất biến. Bà Fanny Bazile, cố vấn của Ủy ban Năng lượng thay thế và Năng lượng nguyên tử Pháp (CEA) lưu ý trong cuốn sách Infrastructure and Methodologies for the Justification of Nuclear Power Programmes (Cơ sở hạ tầng và phương pháp luận cho tính pháp lý của các chương trình điện hạt nhân) là người dân sẽ sẵn sàng đồng thuận điện hạt nhân hơn khi có kiến thức về vấn đề năng lượng, đặc biệt về tiềm năng đóng góp của điện hạt nhân vào hỗn hợp năng lượng phát thải carbon thấp, và nhận thức về giới hạn của năng lượng tái tạo nói chung (như năng lượng mặt trời và gió). Đáng chú ý, người dân càng có kiến thức cụ thể hơn về năng lượng hạt nhân, ví dụ như sống gần nhà máy điện hạt nhân, thì càng dễ chấp nhận nó, khi hiểu rõ hơn lợi ích kinh tế và hoạt động an toàn của nó4.
Điều này đúng ở rất nhiều khu vực có nhà máy điện hạt nhân. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học ĐH Tế Nam, mặc dù mức độ nhận thức của công chúng về điện hạt nhân vẫn còn thấp nhưng mức độ chấp nhận của người dân địa phương lại cao: 66% ghi nhận lợi ích kinh tế của điện hạt nhân, 76% đánh giá lợi ích xã hội lớn nhất của điện hạt nhân là sự bền vững của nguồn cung điện năng hoặc thúc đẩy sự phát triển văn hóa xã hội.
Làm gì để tăng cường sự đồng thuận xã hội?
Câu chuyện về sự đồng thuận xã hội với điện hạt nhân ở Việt Nam dường như khác biệt so với nhiều quốc gia trên thế giới, khi quyết tâm của các cấp lãnh đạo, thông qua hàng loạt chính sách và chuyển động mới, đã thuyết phục được người dân cả nước cũng như người sống ở khu vực xây dựng nhà máy Ninh Thuận 1 về một tương lai ổn định năng lượng cho đất nước với cơ cấu điện năng có điện hạt nhân. Đây là lý do mà những người dân ở xã Phước Dinh, tỉnh Khánh Hòa đã sẵn sàng chấp thuận kế hoạch di dời, giải phóng mặt bằng cho nhà máy của chính phủ, một sự đồng thuận đắt giá giúp dự án tiến triển.
Tuy nhiên, di dời và giải phóng mặt bằng mới chỉ là một trong những bước đi ban đầu của một tiến trình trăm năm. Phía trước sẽ có vô vàn những công việc liên quan đến tiến trình vận hành của nhà máy cần đến sự tham gia của người dân, ví dụ những người sống ở gần nhà máy sẽ trở thành một “kênh truyền thông hiểu đúng về điện hạt nhân”, đồng thời trở thành nhân tố thúc đẩy văn hóa an toàn của nhà máy.
Và như vậy, sự đồng thuận xã hội đối với nhà máy điện hạt nhân cần được duy trì trong toàn bộ vòng đời nhà máy chứ không phải một thời điểm. Đây cũng là việc không dễ, khi xét sự đồng thuận xã hội là sự kết hợp của dư luận, niềm tin vào chính quyền, cảm nhận về sự an toàn, lợi ích kinh tế và phản ứng cảm xúc đối với công nghệ hạt nhân. Trên thực tế, hiểu hành xử của công chúng là một việc khó khăn, nhất là khi các nhóm, các cộng đồng là “hệ thống có thể có hành vi phức tạp, không tuyến tính, các bộ phận tương tác với nhau bởi nhiều mối quan hệ đa dạng, v.v… Hành vi của các hệ thống như vậy hiển nhiên là rất phức tạp, có hỗn độn, có trật tự, và có những chuyển hóa giữa hỗn độn và trật tự”5. Vậy làm gì để thuyết phục họ? Cuốn sách của Viện Hàn lâm Mỹ trích dẫn ý kiến của nhiều nhà khoa học xã hội và nhà nghiên cứu chính sách quốc tế là những tuyên bố về an toàn hạt nhân thường không thuyết phục được công chúng còn dè dặt. Vì vây, yếu tố thiết yếu để công chúng chấp nhận và ủng hộ năng lượng hạt nhân chính là lòng tin tưởng. Cuốn sách này cũng cho rằng, để xây dựng được lòng tin của công chúng thì “điều đầu tiên phải là cam kết tuyệt đối về sự trung thực, tránh phóng đại, nói quá”, và cần có được “sự minh bạch thông qua chia sẻ thông tin và kiến thức [về điện hạt nhân] cũng như sự cởi mở, sẵn sàng lắng nghe và sẵn sàng thực hiện những điều chỉnh hoặc thay đổi có ý nghĩa”.
Đây cũng là điều mà cộng đồng hạt nhân Việt Nam mong muốn các dự án điện hạt nhân của Việt Nam có được để duy trì và phát triển sự đồng thuận xã hội. TS. Lê Chí Dũng, nguyên Cục phó Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (VARAN), khi đề cập đến văn hóa an toàn trong điện hạt nhân, đã lưu ý về việc “xây dựng niềm tin của cộng đồng thông qua sự minh bạch, sẵn sàng đối thoại và giáo dục về an toàn hạt nhân. Sự minh bạch thông tin, không chỉ trong nội bộ nhà máy mà còn với công chúng và cơ quan quản lý, sẽ giúp duy trì niềm tin xã hội đối với ngành hạt nhân. Văn hóa an toàn không thể bền vững nếu xã hội không có sự tin tưởng và ủng hộ”.
Sự cởi mở trong trao đổi thông tin và minh bạch trong truyền đạt thông tin về điện hạt nhân từ các cấp chính quyền, nhà máy điện hạt nhân đến công chúng và ngược lại sẽ là cơ sở để đem lại sự thấu hiểu hai chiều, phía ra quyết định và phía thụ hưởng. Chuyên gia Hoàng Văn Sính cho rằng việc các dự án điện hạt nhân của Việt Nam “rõ ràng về mục tiêu, quản lý tổ chức, cột mốc thời gian sẽ phục vụ cho cả lãnh đạo, giúp trả lời lãnh đạo bằng thông tin rất tường minh, và phục vụ cho cả truyền thông để mọi người có thể hiểu được. Chúng ta cần nghe cả ý kiến khác, lắng nghe và trao đổi, nếu không thì nghe không thủng, nghe không vào, không thuyết phục”.
Việc cung cấp đầy đủ thông tin đúng và kịp thời sẽ là cơ hội để công chúng nhanh thấm, nhanh nắm bắt được về điện hạt nhân. Xu hướng hiện nay cho thấy, công chúng ngày càng có sở thích tìm hiểu thông tin về điện hạt nhân thông qua các mạng xã hội và các loại kiến thức này có ảnh hưởng khác nhau đến nhận thức của mỗi người về lợi ích và rủi ro của điện hạt nhân. “Trong bối cảnh Trung Quốc, việc tăng cường thông tin về lợi ích có thể cải thiện đáng kể sự chấp nhận của công chúng đối với năng lượng hạt nhân”, nhóm các nhà khoa học ĐH Hợp Phì và Thanh Hoa (Trung Quốc) trao đổi trong một công bố về sự đồng thuận của công chúng 6.
Mới đây, trong hội thảo của ngành điện lực vào cuối tháng 11/2025, TS. Hoàng Sĩ Thân, trưởng ban Kế hoạch và quản lý khoa học (VINATOM) cũng nêu kiến nghị về việc tạo sự đồng thuận xã hội thông qua việc xây dựng các chiến lược truyền thông dựa trên khoa học, sẵn sàng đối thoại với cộng đồng; song song với đó là việc chủ động công bố định kỳ an toàn – môi trường – phóng xạ, tạo dựng các ứng dụng tham vấn trực tuyến về điện hạt nhân.
Sự coi trọng truyền thông hạt nhân không phải là câu chuyện hôm nay. Vào thời điểm cách đây hơn một thập kỷ, chiến lược truyền thông về điện hạt nhân của Việt Nam đã được bắt đầu khá bài bản với Trung tâm thông tin KH&CN hạt nhân do ROSATOM mở tại ĐH Bách khoa HN và một số ấn phẩm về năng lượng hạt nhân, điện hạt nhân, an toàn bức xạ… được dịch ra từ tiếng Nga khá thú vị. Giờ đây, khi trở lại với điện hạt nhân trong một tâm thế mới và nhiều công cụ hỗ trợ mới, ắt hẳn Việt Nam sẽ có nhiều sáng kiến để có những cách thức mới truyền thông, cung cấp thông tin về điện hạt nhân tới xã hội tốt hơn. Thậm chí, việc xây dựng thành công Trung tâm KH&CN hạt nhân quốc gia với lò phản ứng nghiên cứu 10MW, từ đó mở rộng hợp tác quốc tế, triển khai những nghiên cứu có ảnh hưởng và cho ra mắt các dược chất phóng xạ mới có khả năng chữa trị ung thư cũng là một cách truyền thông có hiệu quả cho điện hạt nhân và xây dựng lòng tin của công chúng.
Mỗi vùng, mỗi quốc gia sẽ có cách thức xây dựng chiến lược truyền thông hạt nhân phù hợp với điều kiện của mình. Tuy nhiên, chiến lược truyền thông nào và cách thức đối thoại nào cũng cần dựa trên những nguyên tắc cơ bản mà ông Arkady Karneev từng đúc kết: 1. Tuân thủ hoàn toàn khuyến nghị của IAEA cùng với những kinh nghiệm quốc tế về điện hạt nhân; 2. Xác định rõ phân khúc các bên liên quan và giữa mối liên hệ trực tiếp với các bên liên quan trong việc giải quyết các vấn đề về điện hạt nhân; 3. Đối với công chúng, tích cực truyền đạt các kiến thức cơ bản về bức xạ và khoa học hạt nhân; cung cấp thông tin minh bạch và tin cậy về sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân, xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng và chất thải hạt nhân; 4. Cung cấp những thông tin về lợi ích kinh tế – xã hội của hạt nhân ở mức độ khu vực và quốc gia; 5. Nhấn mạnh đến vai trò của công nghệ hạt nhân trong những ngành liên quan như y tế, nông nghiệp, v.v. Để những hoạt động này hiệu quả, theo ông Arkady Karneev, thông tin cần có năm yếu tố: minh bạch, dễ hiểu, phản ứng nhanh, liên hệ trực tiếp và sáng tạo. Lý do là bởi công chúng cần được cung cấp thông tin minh bạch và tin cậy về công nghệ điện hạt nhân dưới nhiều hình thức để giúp họ không chỉ hiểu đúng mà còn có khả năng đưa ra những lựa chọn và quan điểm chuẩn xác, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao về điện hạt nhân trong những thời điểm quan trọng.
Việc xây dựng một nhà máy điện hạt nhân không chỉ để hình thành thêm một nguồn cung năng lượng mà còn góp phần tạo dựng những năng lực mới và hình thành một di sản công nghiệp trăm năm. □
| Những kinh nghiệm mà Rosatom đã áp dụng thành công như tạo dựng nhiều kênh thông tin hữu hiệu đến với công chúng qua truyền hình, sách báo, ứng dụng trên điện thoại di động, máy tính bảng (xây dựng phần mềm tương tác với nhà máy điện hạt nhân)… cũng như chứng minh trong thực tiễn qua hiệu quả năng lượng của các nhà máy điện hạt nhân đang vận hành an toàn. Bên cạnh đó, Rosatom còn đảm bảo khả năng tiếp cận thông tin của công chúng với những thông tin có độ tin cậy cao và cập nhật qua trang web russianatom.ru, nơi cung cấp bản đồ tương tác, cập nhật thông tin về điều kiện bức xạ tại các cơ sở Rosatom cũng như thông tin chung hữu ích về công nghệ bức xạ và điện hạt nhân. |
————–
1. https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/neu-co-phat-tan-phong-xa-ung-pho-theo-cach-nao-28296/
2. “Laying the Foundation for New and Advanced Nuclear Reactors in the United States” (2023).
Chapter: 8 The Social Acceptance Challenge.
3. “How would social acceptance affect nuclear power development? A study from China”. Journal of Cleaner Production. 2017
4. “Chap16 – Social impacts and public perception of nuclear power”. Infrastructure and Methodologies for the Justification of Nuclear Power Programmes. Woodhead Publishing Series in Energy.2012
5. https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/khoa-hoc-ve-cai-phuc-tap-12407/
6. “Study on public acceptance of nuclear power plants: Evidence from China”. Human and Ecological Risk Assessment: An International Journal. 2020.
Bài đăng Tia Sáng số 24/2025
