Hợp tác Doanh nghiệp – Viện/Trường trong môi trường chính sách công
Tại Việt Nam, sự hợp tác Viện/Trường với Doanh nghiệp có thể được giải thích qua nguyên lý giáo dục của chúng ta là “đào tạo - nghiên cứu - phục vụ sản xuất.” Gần đây phong trào hợp tác này đã nổi lên thành một chuyên đề lớn bắt đầu từ hai ĐH Quốc gia Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và lan ra nhiều trường đại học.
Căn bản của sự giàu mạnh của mỗi quốc gia là do có được một hệ thống giáo dục lành mạnh, chất lượng hiện đại. Sự đào tạo một cách cơ bản, chính xác, hiện đại ngay từ lúc đứa bé bước vào nhà trẻ và mẫu giáo cho đến khi tiếp thu vừa và đủ kiến thức văn hóa và khoa học – công nghệ tại trường đại học hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ (KHCN) sẽ giúp mỗi thành viên xã hội nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong tất cả các lĩnh vực kinh tế thể hiện bởi các doanh nghiệp trong nước. Thoạt đầu những dịch vụ giáo dục và nghiên cứu khoa học, bao gồm các trường đại học và trung tâm nghiên cứu, là do Nhà nước cung cấp cho dân. Về sau, kinh phí nhà nước không kham nổi trong khi nhu cầu của dân ngày càng lớn về khoa học và công nghệ. Do đó các doanh nghiệp (DN), nhất là DN vừa và nhỏ gặp khó khăn, khó đổi mới để cải tiến sức cạnh tranh. Ở nhiều quốc gia tiên tiến, chính phủ đã sáng kiến tổ chức những chương trình hợp tác đồng hành công tư (HTĐHCT) giữa doanh nghiệp tư nhân và cơ quan đào tạo và nghiên cứu của nhà nước (public-private partnership – gọi tắt là PPP) để tận dụng các nguồn lực tạo sản phẩm mới, nâng cao hơn nữa tính cạnh tranh quốc gia.
Ở nước ta cho tới nay, nhìn chung phần lớn các sản phẩm quốc gia của chúng ta chưa có tính cạnh tranh cao. Chúng ta chưa có những người giàu như Toyota, Bill Gates… làm giàu bằng khoa học công nghệ của chính họ cộng tác với những chuyên gia cần thiết. Chúng ta cũng đã nói đến việc hợp tác liên kết “ba nhà” hoặc “bốn nhà” trong đào tạo sinh viên, hoặc trong sản xuất nông nghiệp hoặc công nghiệp. Nhưng thực chất những liên kết đó tập trung cho việc đào tạo của các trường đại học là chính. Tại cuộc tọa đàm “Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ” tổ chức bởi Tạp chí Tia Sáng tại Bình Dương vào tháng 3/2013, có nhiều mô hình HTĐHCT đã đem lại những đổi mới công nghệ giúp doanh nghiệp phát triển đồng thời sử dụng tốt nguồn lực về chuyên gia cũng như trang thiết bị của các viện/trường. Tiêu biểu nhất đúng nghĩa HTĐHCT là quá trình liên kết rất sáng tạo mà lãnh đạo của Công ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông đã tìm đến Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội để hợp tác nghiên cứu đổi mới công nghệ của công ty, nâng tầm cạnh tranh của bóng đèn Rạng Đông. Qua buổi tọa đàm này người ta đã nhận ra những ưu điểm mà các bên trong tổ hợp HTĐHCT đã thể hiện, nhưng đồng thời cũng thấy vắng bóng can thiệp của chủ thể quan trọng nhất của mỗi quốc gia: Nhà nước. Dự thảo Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) (sửa đổi 2013) có đề cập một ít về khía cạnh sử dụng kinh phí tư nhân trong công tác KH&CN. Chúng tôi hy vọng khi luật được thông qua, những văn bản dưới luật sẽ cụ thể hóa được chủ trương HTĐHCT của Nhà nước phù hợp với điều kiện nước ta. Sau đây tôi xin nêu những nét khái quát về HTĐHCT của một số quốc gia để trở về Việt Nam chúng ta có thể tham khảo xây dựng chính sách công, tạo điều kiện pháp lý cho những công trình sử dụng hợp lý các nguồn lực tổng hợp công tư trong nước để đổi mới KH&CN hầu nâng tính cạnh tranh quốc gia lên tầm cao hơn.
Hợp tác đồng hành công tư trên thế giới
Cộng đồng châu Âu (EU) đã tiên phong có chính sách bắt buộc các trường đại học trong khối EU phải cộng tác với nhau và với các doanh nghiệp của EU. Về sau, họ qui định cả trong các chương trình viện trợ quốc tế cũng phải có liên kết kiểu “ba nhà.” Ba cơ quan công gồm Hiệp hội các trường đại học châu Âu (European University Association), Liên hiệp các Tổ chức Nghiên cứu và Công nghệ châu Âu (European Association of Research and Technology Organizations), Hiệp hội Quản lý nghiên cứu Kỹ nghệ châu Âu (European Industrial Research Management Association) và Công ty tư nhân ProTon Europe đã được giao soạn thảo một tài liệu “Hợp tác đồng hành Có Trách nhiệm – Hợp lực trong một thế giới tự do đổi mới: Hướng dẫn hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ giữa khoa học và doanh nghiệp”. Đây là một cẩm nang mà tất cả các Trường đại học và Viện nghiên cứu của Khối EU phải theo đúng nếu muốn có kinh phí của EU. Họ hướng dẫn từ khâu “Thế nào là người đối tác có trách nhiệm”, “Nhu cầu nhân lực”, “Yếu tố con người trong hợp tác hữu hiệu”, “Xác định những đối tác thích hợp”, “Xây dựng thỏa ước hợp tác nghiên cứu”, “Vấn đề pháp lý của việc hợp tác”. Quyển hướng dẫn này (EUA, EARTO, EIRMA, PROTON EUROPE, 2009) gồm có cả các biểu mẫu các bên hợp tác cần ghi theo đúng.
Sau một thời gian thực hiện chủ trương liên kết này, EU giao cho Trung tâm Nghiên cứu Tiếp thị Liên kết Trường với Doanh nghiệp (School-to-Business Marketing Research Center, 2009) của Đại Học Munster, Đức, đánh giá kết quả liên kết HTĐHCT của các nước châu Âu và đã chọn 30 mô hình tiêu biểu nhất. Báo cáo cho thấy chủ trương liên kết hợp tác Đại Học–Doanh Nghiệp (University-Business Collaboration viết tắt UBC) do sự tài trợ của Nhà nước (EU) đem lại lợi ích của các bên tham gia và cả xã hội. Nếu UBC được hiểu là sự chuyển tiếp giữa các viện trường và doanh nghiệp để hai bên đều có lợi, thì sự phổ biến chủ trương UBC rộng rãi và rút kinh nghiệm tốt có thể giúp các trường đại học giảm bớt khó khăn về ngân sách ngày càng eo hẹp, giúp doanh nghiệp gia tăng và duy trì khả năng cạnh tranh trong thị trường quốc tế năng động, góp phần vào sự phát triển kinh tế trong nước và trong vùng và đồng thời thỏa mãn được nhu cầu thị trường nhân lực có chuyên môn và kỹ năng cao. Nhìn như thế thì mỗi UBC có hiệu quả sẽ mang lại lợi ích cho mọi bên tham gia, và cho cả xã hội.
Ở Hoa Kỳ, việc hợp tác nhiều bên để nghiên cứu và phát triển đã được Giáo sư John Donahue (2004) tổng hợp đánh giá rất cao. Ông thấy rằng ngoài khu vực nhà nước, xã hội có rất nhiều người tài giỏi trong tất cả các lĩnh vực từ công nghiệp đến sản xuất nông nghiệp cần phải được sử dụng. Còn có nhiều tổ chức phi chính phủ có khả năng tài chính có thể kết hợp được. Nhà nước có vai trò lập chính sách ưu đãi hợp lý để tác động cho sự hợp tác nhiều bên này. Tuy nhiên các bên hợp tác cần cảnh giác vì có thể bí mật của mình bị một trong các bên kia ăn cắp (Counterintelligence Strategic Partnership Unit, 2011). Hội đồng Khoa học Quốc gia Mỹ (NSB, 2012) vừa có một báo cáo chuyên đề về “Nghiên cứu & Phát triển (R&D), Đổi mới, và Lực lượng Khoa học & Kỹ nghệ” cho thấy một viễn cảnh tạm gọi là “hệ sinh thái của sự đổi mới” (innovation ecosystem) trong đó các hoạt động R&D là động lực ươm mầm của các đổi mới. Tỉ lệ hợp tác giữa nhà nước và tư nhân cho thấy thành phần tư nhân ngày càng tăng. Sự hợp tác công-tư sẽ hỗ trợ cho hệ sinh thái này phát triển lên, không chỉ nhờ R&D mà còn nhờ giáo dục và khả năng ứng dụng công nghệ. Báo cáo này đã đưa ra một sơ đồ về “hệ sinh thái của đổi mới” như trong Sơ đồ 1 dưới đây:
Có nhiều mô hình thành công như thế nên Viện Hàn lâm Khoa học của Tiểu bang New York đã cùng Công ty Johnson-Johnson tổ chức một Hội thảo về “Academic-Industry Collaboration Best Practices” (The New York Academy of Science, 2009) qui tụ các chuyên gia tham dự để phân tích mô hình hợp tác. Họ thấy rằng việc hợp tác Viện/Trường với DN trong mọi khía cạnh luôn đưa đến lợi ích cho các bên. Một số mô hình nổi bật đã báo cáo tại Hội thảo này được trình bày trong Sơ đồ 2, 3 và Viện Hàn lâm Khoa học New York đúc kết lại như trong Sơ đồ 4:
Tại Canada, chính phủ đã lập ra các cơ quan sau đây thực hiện chính sách HTĐHCT như sau: Hội đồng Khoa học, Công nghệ và Đổi mới (STIC); Hội đồng các Viện Hàn lâm Canada (CCA); Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Tự nhiên và Kỹ thuật (Natural Science and Engineering Research Council of Canada – NSERC). Chính phủ đã giao cho Hội đồng NSERC soạn thảo và ban hành năm 2009 một hướng dẫn về Chiến lược Hợp tác Đồng hành và Đổi mới (NSERC, 2009). Mục tiêu của chiến lược này là huy động mọi nguồn lực từ nhiều phía tham gia trong Hệ thống Khoa học và Đổi mới để đẩy mạnh vai trò đơn vị của mỗi bên đồng thời tiến lên sức mạnh tổng hợp của các bên giúp Canada tăng cường tính cạnh tranh quốc gia.
Tình hình hợp tác đồng hành công tư ở Việt Nam
Tại Việt Nam, sự hợp tác Viện/Trường với DN có thể được giải thích qua nguyên lý giáo dục kiềng ba chân: “đào tạo – nghiên cứu – phục vụ sản xuất”. Nguyên lý này được áp dụng trước tiên vào lĩnh vực nông nghiệp tại Trường Đại học Cần Thơ, nơi đào tạo cán bộ nông nghiệp có kiến thức và kỹ năng chuyên môn và nghiên cứu ứng dụng thích hợp với nông nghiệp Việt Nam. Từ năm 1976, để nắm rõ những nhu cầu về kỹ thuật sản xuất của nông dân, các giáo sư của Khoa Nông nghiệp ĐH Cần Thơ đã về các địa phương gặp gỡ các nông gia (những nhà “doanh nghiệp một thành viên”) để tìm hiểu những trở ngại trong sản xuất. Sau đó các giáo sư sinh hoạt với sinh viên và cử sinh viên về đồng ruộng của nông dân thực hiện những thí nghiệm ứng dụng cùng nông gia, rồi truyền đạt kỹ thuật vừa tìm ra tại thời điểm đó cho nông dân trong vùng. Kết quả của sự cộng tác Trường và Nông dân cả đồng bằng sông Cửu Long đã đem lại lợi ích cho các bên và sau cùng đã góp phần to lớn giúp đất nước ta có dư thừa lúa gạo trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng hàng nhất-nhì thế giới. Tuy nhiên ngoài hoạt động hợp tác trong sản xuất nông nghiệp, hoạt động hợp tác các lĩnh vực khác rất khó thực hiện vì thiếu người đầu đàn triển khai. Đó là tình trạng chung của các viện/trường, dẫn đến dư luận cho rằng sản phẩm của trường đào tạo ra không thích hợp nhu cầu nơi sử dụng. Gần đây phong trào hợp tác Viện/trường-DN đã nổi lên thành một chuyên đề lớn bắt đầu từ hai Đại học Quốc gia Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và xuống lần đến hầu hết các trường đại học. Trần Anh Tài và Trần Văn Tùng (2009) đã đưa ra nhiều thí dụ trong một tập chuyên khảo về việc liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu. Gần đây cũng đã có những hội thảo chuyên đề, đáng kể như Hội thảo tại Đại học quốc gia Hà Nội (Phan Huy Hiển, 2009), Viện CNTT&TT của ĐH Bách Khoa Hà Nội (12/10/2011) và Đại học Lạc Hồng (ngày 10/10/2012). Nhìn chung, vấn đề hợp tác Viện với Trường đã đạt kết quả rất tốt nhờ tận dụng các nguồn lực: Viện thì giàu thiết bị, trường có thầy giỏi nhưng yếu thiết bị. Tuy nhiên các thảo luận cho đến nay vẫn nhìn nhận rằng sự hợp tác Viện/Trường với DN hiện nay vẫn còn nhiều cái khó: chuyên gia mà doanh nghiệp cần, kinh phí, quan hệ DN nhận sinh viên thực tập thế nào, vấn đề quyền tác giả là của ai… Hợp tác Viện/Trường-DN hầu như do tự nguyện vì nhu cầu là chính, cho nên chưa có thể thực hiện đúng tầm cỡ mà dự án mong muốn vì thiếu kinh phí. Do đó việc hợp tác này vẫn còn phải cải tiến nhiều hơn nữa nếu có những chính sách Nhà nước hỗ trợ hoặc hướng dẫn trường/viện và DN tham gia. Một điển hình đáng biểu dương trong số DN của ta đã chủ động sáng kiến tìm đến Viện/Trường để hợp tác là trường hợp Công ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Tuy nhiên sự hợp tác này mới chỉ ở cấp thấp vì đi lên nữa thì không có tài chính để triển khai. Nếu Nhà nước ta cũng có chính sách như một số quốc gia trên đây thì sự hợp tác của Công ty Rạng Đông sẽ nở hoa kết trái gấp nhiều lần, đưa bóng đèn Rạng Đông đến đỉnh vinh quang hơn nữa, giúp tiết kiệm điện năng cho quốc gia và tiết kiệm tài chính cho mọi nhà.
Kết luận
Chúng tôi mong Luật KH&CN (sửa đổi 2013) sớm ra đời để sau đó có một loạt các chính sách cụ thể về hợp tác đồng hành công tư như các nước tiên tiến. Có hành lang pháp lý đó, vai trò của Nhà nước sẽ nổi bật lên nhờ xúc tác được cho trăm ngàn đổi mới công nghệ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế của nước ta.
—
* GS.TS, Hiệu trưởng Đại học Tân Tạo
Tài liệu tham khảo
COUNTERINTELLIGENCE STRATEGIC PARTNERSHIP UNIT. 2011. Higher Education and National Security: The Targeting of Sensitive, Proprietary, and Classified Information on Campuses of Higher Education. Washington, DC.: Federal Bureau of Investigation, U.S. Department of Justice. http://www.fbi.gov/about-us/investigate/counterintelligence/higher-education-and-national-security. Truy cập ngày 11 June 2013.
DONAHUE, JOHN. 2004. “On Collaborative Governance.” Corporate Social Responsibility Initiative Working Paper No. 2. Cambridge, MA: John F. Kennedy School of Government, Harvard University.
EUA, EARTO, EIRMA, PROTON EUROPE. 2009. Responsible Partnering: Guidelines for Collaborative Research and Knowledge Transfer Between Science and Industries. European Union: Brussels, Belgium.
NATIONAL SCIENCE BOARD. 2012. Research & Development, Innovation and the Science & Engineering Workforce. National Science Foundation: Arlington, VA.http://www.nsf.gov/nsb/publications/2012/nsb1203.pdfTruy cập ngày 11/6/2013
NATURAL SCIENCES AND ENGINEERING RESEARCH COUNCIL OF CANADA (NSERC). 2009. Connect-Collaborate-Prosper: Strategy for Partnership and Innovations. NSERC: Ontario, Canada. http://www.nsercpartnerships.ca/_docs/SPI_e.pdf Truy cập ngày 10/6/2013
NEW YORK ACADEMY OF SCIENCE AND JOHNSON-JOHNSON COMPANY. 2009. Academic-Industry Collaboration Best Practices. Symposium held at The NYAS on December 8, 2009. http://www.nyas.org/publications/ebriefings/Detail.aspx?cid=a937b74a-a986-4bff-9633-9afd6d046e85Truy cập ngày 8/6/2013
OECD. 1999. Managing National Innovation System. Organization for Economic Co-operation and Development: Paris.http://www.oecd.org/science/inno/2101733.pdfTruy cập ngày 10/6/2013
SCIENCE-TO-BUSINESS MARKETING RESEARCH CENTRE. 2009. 30 Good practice case studies in university-to-business cooperation. Science Marketing. Munster University of Applied Sciences: Munster, Germany.http://ec.europa.eu/education/higher-education/doc/studies/munstercase_en.pdfTruy cập ngày 8/6/2013
PHAN HUY HIỂN. 2009. Liên kết giữa trường đại học – Viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Báo Nhân Dân 26/6/2009: http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=39&sub=127&article=150843Truy cập ngày 8/6/2013
TRẦN ANH TÀI và TRẦN VĂN TÙNG. 2009. Liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu (Sách chuyên khảo, 181 tr.). Hà Nội : Nhà Xuất bản ĐHQGHN.VÔ DANH. 2011. Hội thảo “Hợp tác Nhà trường và Doanh nghiệp trong Đào tạo và Nghiên cứu CNTT&TT” tại Viện CNTT&TT, ĐH Bách Khoa Hà Nội ngày 12/10/2011. http://soict.hut.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=868&Itemid=38Truy cập ngày 8/6/2013.