Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia: Một sự khởi đầu mới?
Việc hình thành hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm (PTNTĐ) quốc gia, được đề cập đến gần đây, như một giải pháp đột phá về cơ sở hạ tầng hiện đại cho KH&CN Việt Nam. Vậy có sự kết nối nào giữa hệ thống PTNTĐ mới này với hệ thống PTNTĐ quốc gia đã tồn tại hai thập kỷ? Liệu quá khứ có sẵn một vài câu trả lời cho hiện tại và tương lai?

“Không có phòng thí nghiệm, các nhà khoa học như những người lính không vũ khí”, câu nói của Louis Pasteur trở thành một khái quát rộng nhất về giá trị của hệ thống cơ sở hạ tầng nghiên cứu. Ở Việt Nam, từ hơn hai thập niên trước, một hệ thống PTNTĐ đã được thiết lập và được đầu tư cơ sở vật chất hiện đại với kỳ vọng “tạo ra và đưa nhanh các thành tựu khoa học, tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Quyết định phê duyệt Đề án “Xây dựng các PTNTĐ” cũng nêu rõ các phòng thí nghiệm này “hoạt động theo phương thức mở, hợp tác giữa các cơ quan, đơn vị nhằm bảo đảm sử dụng tối đa hiệu suất của máy móc thiết bị và năng lực của đội ngũ cán bộ”1.
Có phải đây là điểm khởi đầu của các phòng thí nghiệm đạt tầm cỡ quốc tế?
Trên thực tế thì phần nhiều các PTNTĐ lại không được như vậy. Khi nhìn lại hai thập niên tồn tại của PTNTĐ quốc gia, TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN, nhận xét “Tôi được biết là cho đến giờ vẫn còn ba, bốn phòng vẫn còn hoạt động, có thể nói là ở mức độ tương đối tốt, nhưng có rất nhiều phòng đã bị đóng cửa từ lâu. Ngay từ quãng năm 2009 – 2010, khi chúng tôi đi cùng với các bộ, ngành kiểm tra thì có nơi gần như không hoạt động nữa, trang thiết bị đã ‘đắp chiếu’ rồi”.
Khi nói đến những bi hài ở các PTNTĐ, người ta thường nghĩ Bộ KH&CN là nơi chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên, việc lần theo những dấu mốc thời gian mới thấy cả một chuỗi những vướng mắc, bất cập mà một trong số đó đã xuất hiện từ quy trình thiết kế và thực hiện.
Những gì diễn ra ngược lại với kỳ vọng ở các PTNTĐ khiến người ta đặt câu hỏi cơ chế vận hành, giám sát và đánh giá nào dẫn đến thực trạng như vậy? Những gì rút ra từ đó có hữu ích với ngày hôm nay không? Những vấn đề này được lật đi lật lại trong cuộc hội thảo “Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia: Những bài học kinh nghiệm”, do Tia Sáng tổ chức vào ngày 9/5/2025, giữa các nhà khoa học và quản lý khoa học, như một nỗ lực đi tìm gợi ý hữu ích cho việc thiết kế những kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng nghiên cứu hiện đại.
Những mảng màu sáng tối
“Vào thời điểm đó, GDP của Việt Nam vào khoảng 100 tỉ USD nên dự án PTNTĐ được đầu tư 80 triệu USD cũng là một đầu tư rất lớn, tương đương hơn 1000 tỉ đồng Việt Nam”, TS. Nguyễn Quân, một trong những người chứng kiến phần lớn quá trình đầu tư vào hệ thống PTNTĐ quốc gia, chia sẻ tại hội thảo. “Đây cũng là một quyết sách lớn của chính phủ để hỗ trợ phát triển KH&CN theo tinh thần hội nghị TƯ 2 khóa 8 khi xác định KH&CN là quốc sách hàng đầu”.
Hai thập niên trước, các PTNTĐ hầu hết đều đặt tại Hà Nội và TPHCM, tập trung ở những lĩnh vực mà ngày nay chúng ta đều thấy là rất thời sự và xứng đáng được đầu tư, đó là IT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ chế tạo máy và tự động hóa, hóa dầu, năng lượng và lĩnh vực cơ sở hạ tầng khác. “Trong danh mục các PTNTĐ được phê duyệt thì khoản đầu tư lớn nhất thuộc về Phòng thí nghiệm bể thử mô hình tàu thủy với 17 triệu USD. Một số phòng thí nghiệm khác thì ở mức độ khiêm tốn, khoảng 1-2 triệu USD cũng có mà 5-7 triệu USD cũng có”, TS. Nguyễn Quân điểm lại.

Dù được trang bị những thiết bị hiện đại nhưng nhiều PTNTĐ lại không đạt được thành công như kỳ vọng. Tháng 7/2018, khi phóng viên Tia Sáng tới làm việc với GS. Trần Vĩnh Diệu ở PTNTĐ quốc gia Vật liệu Polymer và Compozite, ĐH Bách khoa Hà Nội, ngỡ ngàng thấy nhiều thiết bị máy móc hoen rỉ nhem nhuốc, im lìm xếp cạnh nhau trong một không gian bụi bặm, dường như đã lâu không được sử dụng. Khi được hỏi nguyên nhân vì sao lại xảy ra cơ sự này, GS. Trần Vĩnh Diệu chua xót mà rằng, máy móc khi dùng thì có thể bị hỏng hóc, nhưng hỏng hóc thì rất khó xử lý, cần phải có kinh phí hoặc để mời chuyên gia nước ngoài sửa chữa hoặc mua linh kiện ở nước ngoài thay thế nhưng lại không được như vậy.
Việc máy móc chạy rồi hỏng hóc, hết thời hạn sử dụng không phải là chuyện hiếm. “20 năm qua rồi, việc sử dụng thiết bị như vậy nói ra thế giới người ta cười cho bởi có những máy móc không thể mua được thiết bị và phụ tùng thay thế vì các hãng không còn sản xuất nữa”, GS. Vũ Thị Thu Hà, Giám đốc PTNTĐ Lọc hóa dầu Quốc gia, chia sẻ trong một cuộc gặp gỡ vào cuối năm 2024.
Trong mấy thập kỷ qua, những lĩnh vực “thâm dụng” thiết bị như công nghệ sinh học, hóa, IT… đều chứng kiến những bước tiến vượt bậc và các thế hệ thiết bị kế tiếp nhau. Ví dụ trong công nghệ sinh học, trước những năm 2000, nếu “cỗ máy cái” giải trình tự Sanger là mơ ước của nhiều phòng thí nghiệm khi có thể giải trình tự tới 384 mẫu DNA trong một đợt chạy thì sau đó, liên tiếp các cột mốc ghi nhận sự ra đời của các máy giải trình tự thế hệ mới có thể giải trình tự toàn bộ hệ gene người hoặc giải trình tự hàng triệu hoặc hàng tỷ đoạn DNA cùng lúc và phân tích các tập dữ liệu lớn với thời gian ngắn hơn, chi phí nhỏ hơn. Dẫu vậy, ở PTNTĐ Công nghệ gene, việc cập nhật máy móc nằm ngoài tầm với. Trên Truyền hình Quốc hội năm 2023, TS. Đỗ Tiến Phát, Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật (Viện CNSH, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), cho biết “Hầu hết thiết bị của PTNTĐ Công nghệ gene như thiết bị ly tâm và một số thiết bị khác, ngay cả bình nước cất, cũng có tuổi thọ hơn 20 năm. Vì thế, khả năng sử dụng của các thiết bị này đều rất kém. Khi hỏng hóc, các nhà khoa học đều tìm mọi cách sửa chữa, nâng cấp, tuy nhiên tốc độ và chất lượng các nghiên cứu đều giảm”.
Tâm thế lúng túng trong triển khai các dự án PTNTĐ đã khiến các bên liên quan rơi vào thế bị động và thậm chí dẫn đến “sự mâu thuẫn, chồng chéo, xung đột lợi ích giữa các bộ chủ quản với Bộ KH&CN, Bộ KH&ĐT”, TS. Nguyễn Quân nhận xét. Một hệ quả của nó là các phòng thí nghiệm từ vị thế “con đẻ” trở thành “con nuôi” ngay từ lúc khởi sinh.
Nỗi chật vật của các PTNTĐ nhân lên theo thời gian. Không chỉ thiết bị xuống cấp và hỏng hóc, việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nghĩa là phải “tự nuôi nhau”, “ăn đong” như lời giải thích của GS. Vũ Thị Thu Hà, GS. Lê Huy Hàm (nguyên Giám đốc PTNTĐ Công nghệ tế bào thực vật) hay GS. Lê Văn Nghị (Giám đốc PTNTĐ Động lực học sông biển), khiến cho các nơi này ngày một kém hấp dẫn. “Anh em [làm ở các PTNTĐ] cũng không được lương từ ngân sách nhà nước”, chuyên gia Nguyễn Thị Thu Oanh, nguyên Viện phó Viện Đánh giá Khoa học và Định giá Công nghệ (Bộ KH&CN), người từng tham gia đoàn đánh giá các PTNTĐ quốc gia cùng chuyên gia quốc tế, xác nhận.
“Khoa học là điều tuyệt vời nếu như người ta không phải kiếm sống bằng nó”, Albert Einstein từng nói như vậy. Ở PTNTĐ, cơ chế tự chủ khiến họ đều phải tự bơi, tìm đủ mọi cách để tự trang trải. “Tôi rất chia sẻ với PGS. Lê Thu Quý ở PTNTĐ Hàn và xử lý bề mặt. Khi đoàn chuyên gia đánh giá đến, họ ngạc nhiên về những việc ở đây làm, bởi đấy chỉ là việc làm dịch vụ kỹ thuật nhiều hơn mà không phải công việc của một PTNTĐ. Họ nói ‘đáng nhẽ, vai trò của các anh là hỗ trợ doanh nghiệp thì lại đi tranh việc của họ đấy’. Anh Quý thừa nhận ‘việc của chúng tôi bây giờ là đi kiếm tiền để tồn tại, có cái gì cũng phải làm. Chúng tôi buộc phải làm và không thể theo đuổi những nghiên cứu quan trọng, dài hạn’”, bà Nguyễn Thị Thu Oanh kể lại một trong những điều mình chứng kiến trong quá trình đánh giá.
Ba cái khó trói buộc trong hoạt động của PTNTĐ bao gồm: cơ chế đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, cơ chế đặc thù trong tuyển dụng, đãi ngộ cán bộ và cơ chế để cán bộ trong và ngoài nước đến làm việc.
Tuy nhiên, bức tranh hệ thống PTNTĐ không hẳn chỉ có gam màu tối bởi thành công luôn thuộc về những người dám nghĩ, dám làm và dám đi đến tận một chu trình sản phẩm khoa học. “Chúng tôi đã dũng cảm đi vào những chỗ đúng nghĩa mà PTNTĐ phải làm, tức là lĩnh vực chiến lược của nhà nước. Năm 2007, khi chúng tôi theo đuổi sản phẩm nhiên liệu sinh học thì chưa ai quan tâm, nhưng từ đó đến nay, chúng tôi vẫn miệt mài các đề tài đó và đến nay đã gặt hái được thành quả, ví dụ như phụ gia tiết kiệm năng lượng và khí thải có thể đem lại lợi ích đong đếm bằng tiền cho doanh nghiệp”, GS. Vũ Thị Thu Hà đề cập đến thành quả khoảng 30 cụm công trình, đào tạo nguồn nhân lực, bằng sáng chế, trong đó “những sản phẩm nào mang tính chất công nghệ lõi, có khả năng tạo ra những tiềm lực và sức lan tỏa lớn thì chúng tôi đăng ký ở Mỹ, dù chi phí đăng ký chúng tôi hoàn toàn tự bỏ ra”.
Nói một cách công bằng, người làm ở các PTNTĐ không hẳn chỉ thụ động chờ thời hoặc chờ nhà nước. Ở các mức độ khác nhau, họ đều cố gắng tồn tại và đạt được thành quả đáng kể. “10 năm trước, chúng tôi đã thành lập được các PTN liên kết với Pháp về lúa và cà phê, với Nhật Bản về cây sắn, với Mỹ về công nghệ sinh học trên cây ngô và đậu tương, với CIAT về nhiên liệu sinh học – đều là những cây trồng chiến lược của Việt Nam. Các phòng này đã thu hút được rất nhiều nhân lực trình độ cao, chuyên gia xuất sắc của quốc tế về làm việc cùng với mình”, GS. Lê Huy Hàm cho biết.

Những đốm sáng nhỏ nhoi cho thấy một số PTNTĐ cũng có được doanh thu chính đáng bằng năng lực của mình. “Chúng tôi giải quyết những bài toán lớn về thủy động lực, những bài toán rất lớn như đập dâng trên các hệ thống sông, bây giờ sông Hồng và tái tạo các dòng sông suy thoái cạn kiệt”, GS. Lê Văn Nghị, PTNTĐ quốc gia Động lực học sông biển, nói. “Năm 2011, nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân có đến thăm phòng thí nghiệm, lúc đó anh Hoàng Văn Thắng, nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, có giới thiệu về một mô hình mà chúng tôi đã nghiên cứu và đã giúp nhà nước tiết kiệm đến 200 tỷ đồng. Chỉ một nghiên cứu đấy đã mang lại hiệu quả gấp ba lần tổng mức đầu tư của phòng thí nghiệm”. Ngay như PTNTĐ Hàn và xử lý bề mặt, “năm vừa rồi, chúng tôi cũng nhận được zero kinh phí nhà nước, nhưng kí hợp đồng đâu đấy cũng ngót nghét trăm tỉ doanh thu, còn số lượng đơn đặt hàng là 177 đơn, toàn bộ đều từ doanh nghiệp. Chẳng hạn, sản phẩm tay máy robot cho công nghiệp ô tô đã có những đơn hàng đầu tiên của Huyndai Thành Công”, theo PGS. Lê Thu Quý.
Tuy nhiên ở những nơi này, thành công về doanh thu hoặc sản phẩm vẫn chưa thể làm khuất lấp nỗi lo. “Anh em hay nói đùa với nhau là cơ sở vật chất, trang thiết bị, con người như vậy, nhưng nhiều khi việc ‘hàn cửa hoa, cửa sắt’ thì cũng phải làm cho nó ra tiền để nuôi nhau thôi” như chia sẻ của PGS. Lê Thu Quý.
Theo quan điểm của GS. Nguyễn Đức Chiến, hệ thống PTNTĐ quốc gia mới cần phải tuân thủ triệt để ba nguyên tắc: thứ nhất là mở; thứ hai là hợp tác trong nước – quốc tế, công – tư; thứ ba là chia sẻ kinh phí, ví dụ sử dụng để làm nghiên cứu cơ bản, đào tạo thì cần phải có mức khác còn sử dụng để phát triển sản phẩm có bản quyền, có lợi nhuận thì mức giá khác.
Tại sao những thành công này vẫn còn khiêm tốn và ngay cả những PTNTĐ được coi là thành công vẫn phải chật vật tồn tại và không thể toàn tâm toàn ý cho sứ mệnh của mình là tạo ra đột phá?
Trăm sự tại cơ chế hay con người?
Việc soi chiếu vào hai thập niên tồn tại của các PTNTĐ có thể giúp loại bỏ những lớp vỏ ngoài hào nhoáng để tách bạch căn nguyên khiến các nơi này không đạt được kỳ vọng. Một trong những vấn đề ở xuất phát điểm là “Việc xây dựng đề án tổng thể trình chính phủ là Bộ KH&CN nhưng việc xây dựng từng dự án PTNTĐ lại do các bộ chủ quản và các viện nghiên cứu, các trường ĐH là chủ trì, và khi tập hợp lại để trình chính phủ là Bộ KH&CN”, TS. Nguyễn Quân nhớ lại. Không ai nghĩ rằng, những điểm bất cập ngay từ ban đầu đó lại có thể dẫn tới những vướng mắc cơ bản về sau.
Thông thường, khi nói đến những bi hài ở các PTNTĐ, người ta thường nghĩ Bộ KH&CN là nơi chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên, việc lần theo những dấu mốc thời gian mới thấy cả một chuỗi những vướng mắc, bất cập mà một trong số đó đã xuất hiện từ quy trình thiết kế và thực hiện. “Khi thủ tướng phê duyệt dự án, Bộ KH&CN lại đứng ngoài, không được tham gia vào quá trình đầu tư mà là Bộ KH&ĐT cùng các bộ chủ quản”, TS. Nguyễn Quân nói. “Khi hoàn thành quá trình đầu tư, PTNTĐ được bàn giao lại cho các bộ chủ quản, Bộ KH&CN mới được gọi quay trở lại để cùng với các bộ chủ quản tổ chức hoạt động cho các PTNTĐ. Lúc đó ở Bộ KH&CN, chúng tôi đã gọi đó là quá trình đầu tư bị cắt khúc”.
Không chỉ bị cắt khúc mà quá trình thực hiện đầu tư cũng chưa thật tối ưu, có phòng thí nghiệm thì “quá trình kéo dài theo việc giải ngân nên đến khi hoàn thành giai đoạn đầu tư thì rất nhiều trang thiết bị đã trở nên lạc hậu” như phân tích của TS. Nguyễn Quân, nhưng lại có nơi “thời hạn thực hiện trong vòng ba năm” trong khi những người sử dụng “muốn giãn thời gian ra để phù hợp với tiềm lực về KH&CN, tiềm lực về triển khai, tiềm lực về con người mà không phải một lúc là có ngay được”, như chia sẻ của GS. Lê Huy Hàm.
Có lẽ, tâm thế lúng túng trong triển khai các dự án PTNTĐ đã khiến các bên liên quan rơi vào thế bị động và thậm chí dẫn đến “sự mâu thuẫn, chồng chéo, xung đột lợi ích giữa các bộ chủ quản với Bộ KH&CN, Bộ KH&ĐT”, TS. Nguyễn Quân nhận xét. Một hệ quả của nó là các phòng thí nghiệm từ vị thế “con đẻ” trở thành “con nuôi” ngay từ lúc khởi sinh. “Bộ KH&CN phê duyệt kinh phí 3 triệu USD cho việc thành lập, mua trang thiết bị cho PTNTĐ nhưng Bộ NN&PTNT tưởng rằng số kinh phí này nằm ngoài kinh phí được cấp hằng năm. Đến khi thực hiện dự án, tất cả mới vỡ lẽ ra là không phải thế và Bộ NN&PTNT không mấy phấn khởi vì tiền được cấp đã được dự kiến dành cho các chiến lược phát triển rồi”, GS. Lê Huy Hàm nói về thân phận “con nuôi’ của PTNTĐ Công nghệ tế bào thực vật.
Để các PTNTĐ được vận hành tương đối liên tục, chúng ta buộc phải xây dựng chương trình đặt hàng dài hạn để các PTNTĐ có được một sân chơi đúng tầm, vừa có kinh phí duy trì bộ máy, vừa có nhiệm vụ thực hiện. Đây cũng là cơ hội để các PTNTĐ mở và hợp tác, không chỉ giữa giới khoa học với nhau mà còn với cả doanh nghiệp. Nguyễn Thu Oanh
Giữa lý thuyết và thực tế luôn tồn tại sự khác biệt. Nhìn từ bên ngoài, hẳn người ta nghĩ, các PTNTĐ sẽ được hưởng một cơ chế quản lý và vận hành xứng tầm “trọng điểm” để có thể làm ra những sản phẩm “trọng điểm”. Mang danh là vậy nhưng trên thực tế, cơ chế lại không hề “trọng điểm”, ngay cả khi Bộ KH&CN đã ban hành quy chế hoạt động của hệ thống các PTNTĐ. “Chúng tôi có theo dõi báo cáo và thấy gần như các nội dung trong quy chế hoạt động của PTNTĐ đều không triển khai được bởi sự chồng chéo bất hợp lý trong hệ thống quản lý”, TS. Nguyễn Quân nhận xét. Không được giải quyết một cách ổn thỏa, những vướng mắc này đã thêm phần gia nhiệt cho những vướng mắc mới trong quá trình vận hành của các PTNTĐ.
Tại sao lại như vậy? Cũng như mọi tổ chức KH&CN công lập, các PTNTĐ không vượt qua được rất nhiều ràng buộc của cơ chế quản lý từ những văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Theo quy định, hầu hết các PTNTĐ đều được nhà nước cấp kinh phí chi thường xuyên trong vòng bốn năm, sau đó phải tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 năm 2005 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nghĩa là tự chủ toàn diện, cả về nhiệm vụ, về tổ chức biên chế, và tài chính. Sự hiểu lầm ban đầu giữa các bộ, ngành khiến cho các PTNTĐ càng thêm khó khăn khi đi vào hoạt động theo cơ chế tự chủ. “Lúc đầu các cơ quan chủ quản đều nghĩ rằng, PTNTĐ sẽ được nhà nước đầu tư rất nhiều nên ai cũng hào hứng nhưng khi được biết PTNTĐ phải tự chủ thì gần như các cơ quan chủ quản, các viện cũng ‘giẫy ra’, cho anh em tự bơi”, bà Thu Oanh giải thích.
Rút cục, các bộ chủ quản và các cơ quan chủ trì đều không mặn mà với “con nuôi” của mình, thậm chí “người ta muốn giữ sự an toàn nên cái gì người ta cũng cẩn trọng quá mức cần thiết”, theo góc nhìn của TS. Nguyễn Quân. Vì vậy, trên thực tế là “bộ chủ quản hầu như không phân cấp quản lý cán bộ ở các PTNTĐ, không có quyết định về giao tài sản để các PTNTĐ có thể tự chủ trong khi không được phân cấp thì không thể tự chủ được, nhất là trong tuyển dụng, điều động cán bộ, tự chủ các đề tài nghiên cứu, và quan trọng nhất là tự chủ tài chính”. Mặt khác, cơ quan chủ trì “cũng không thể cho các PTNTĐ cái mũ tự chủ toàn diện được vì bộ chủ quản chưa cho” nên “chỉ làm được một việc là chăm lo một số nhiệm vụ của PTNTĐ thông qua việc giao một số đề tài, dự án hoặc hỗ trợ trong chuyển giao công nghệ”.
Phương châm giữ sự an toàn của các bộ chủ quản khiến cho nỗ lực quẫy đạp của nhiều PTNTĐ ít đạt kết quả. Việc xây dựng biểu phí dịch vụ phòng thí nghiệm là một cách để họ có thể có nguồn thu bù đắp hoặc đơn giản là thực hiện nguyên tắc mở cho PTNTĐ. Nếu các nhà nghiên cứu ở các tổ chức khoa học bên ngoài hoặc doanh nghiệp muốn sử dụng thiết bị thì PTNTĐ có thể dựa vào biểu phí này để tính kinh phí, chủ yếu để bù đắp khấu hao máy móc và kinh phí sửa chữa thiết bị. Tuy vậy, khi các PTNTĐ đề xuất phương án biểu phí lên bộ chủ quản thì lại không được thông qua. “Trong quá trình hoạt động, chúng tôi đã cố gắng biên soạn và xây dựng định mức sử dụng máy móc. Chúng tôi xây dựng biểu phí sử dụng ấy ra rồi nhưng rồi không ai dám duyệt”, GS. Lê Văn Nghị nói.
Không riêng gì PTNTĐ quốc gia Động lực học sông biển, hầu khắp các PTNTĐ còn lại đều không có biểu phí để hoạt động. Đó cũng là lý do dẫn đến tình trạng mà trong và ngoài hội thảo, người ta thường nhắc đến: rất nhiều PTNTĐ đều trở thành đóng trong khi được thiết kế để mở. Với một cơ sở nghiên cứu tự chủ, vốn đã không có cả kinh phí duy trì hoạt động của thiết bị (running cost), việc mở cửa cho các nhà nghiên cứu ở nơi khác sử dụng thiết bị hoặc gửi mẫu đến đo đạc là chuyện không tưởng. Nỗi niềm PGS. TS Nguyễn Trần Thuật (Trung tâm Nano và Năng lượng, ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN) chia sẻ trong tọa đàm về phòng thí nghiệm năm 2022, hóa ra không khác mấy nỗi niềm đồng nghiệp ở các PTNTĐ là mấy “Chúng tôi rất muốn sử dụng tối đa thiết bị mình có, mở cửa để các nhà nghiên cứu khác có thể đến nhưng vướng ở điểm không có running cost, chi phí sửa chữa, tiền điện đi kèm…”.
Trong một không gian chồng chập rất nhiều ô lưới quản lý nhân sự, tài chính đến thương mại hóa kết quả nghiên cứu tương tự các tổ chức KH&CN công lập khác, phần lớn các PTNTĐ khó tìm ra phương thức nào thực sự hữu hiệu để vượt thoát, “ngoại trừ một vài PTNTĐ mà những người đứng đầu có quyết tâm và có ý chí rất lớn về phát triển KH&CN”, như nhận xét của TS. Nguyễn Quân. “Rất nhiều PTNTĐ chỉ vì một vài hư hỏng rất nhỏ mà phải đóng cửa vì không có kinh phí để thay thế phụ tùng hoặc bảo dưỡng”.
Đó cũng là lý do mà trong buổi làm việc với đoàn công tác liên bộ gồm Bộ KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ KH&ĐT, Bộ NN&PTNT vào tháng 10/2013, TS. Nguyễn Văn Đồng, Phó Giám đốc PTNTĐ Công nghệ tế bào thực vật đã phân trần ba cái khó trói buộc trong hoạt động, bao gồm: cơ chế đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, cơ chế đặc thù trong tuyển dụng, đãi ngộ cán bộ và cơ chế để cán bộ trong và ngoài nước đến làm việc2.
Tất cả những điều đó có ý nghĩa gì với hôm nay, với kế hoạch tạo dựng một hệ thống PTNTĐ phục vụ công nghiệp chiến lược và sản phẩm chiến lược và với cả cơ sở hạ tầng KH&CN nói chung?
Một cách tiếp cận mới
“Giá trị của kinh nghiệm là ở chỗ không phải nhìn thấy nhiều mà nhìn thấy một cách khôn ngoan”, Sir William Osler, cha đẻ của y học hiện đại từng đúc rút như vậy. Những gì diễn ra với các PTNTĐ trong hai thập niên qua, hẳn sẽ có nhiều giá trị gợi mở cho các nhà nghiên cứu cũng như các nhà quản lý để vận hành và sử dụng các hệ thống cơ sở vật chất hiện đại một cách tối ưu. “Trong giai đoạn tới vẫn cần mô hình PTNTĐ nhưng trong bối cảnh mới cần có những cái mới. Chúng ta nên xem xét kỹ hơn ở các khía cạnh mình thất bại hay chưa thành công trong thời gian vừa rồi để có những tiêu chí hoặc chính sách liên quan đến PTNTĐ. Có nhiều vấn đề mà chúng ta không khắc phục được thì có thể sẽ quay trở lại với các PTNTĐ mới”, GS. Nguyễn Đức Chiến, chia sẻ góc nhìn của một trong những người từng gây dựng Viện ITIMS ở ĐH Bách khoa Hà Nội.
Theo quan điểm của ông, hệ thống PTNTĐ quốc gia mới cần phải tuân thủ triệt để ba nguyên tắc: thứ nhất là mở; thứ hai là hợp tác trong nước – quốc tế, công – tư; thứ ba là chia sẻ kinh phí, ví dụ sử dụng để làm nghiên cứu cơ bản, đào tạo thì cần phải có mức khác còn sử dụng để phát triển sản phẩm có bản quyền, có lợi nhuận thì mức giá khác.
Mặc dù định hướng của các PTNTĐ quốc gia mới là bám sát chương trình công nghệ chiến lược và sản phẩm chiến lược nhưng theo GS. Nguyễn Đức Chiến, GS. Vũ Thị Thu Hà và TS. Phan Việt Cương (Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam), các phòng thí nghiệm này cần giữ được sự cân bằng giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu định hướng ứng dụng, nghiên cứu công nghệ. “Kinh nghiệm của chúng tôi là đi bằng hai chân, tức là phải làm cả nghiên cứu cơ bản, vẫn phải bám sát nghiên cứu cơ bản bởi chúng ta không nghiên cứu cơ bản thì không còn khoa học nữa. Thế nhưng, nếu chỉ nghiên cứu cơ bản thì không thể đấu thầu đề tài và không mang những kết quả có tiềm năng ứng dụng thành kết quả”, GS. Vũ Thị Thu Hà nói.
Nỗi trăn trở của những người làm khoa học, kinh qua rất nhiều khó khăn của nghiên cứu, phát triển sản phẩm và thu về nhiều thành công cũng như thất bại đã gặp nhau ở một điểm mơ ước: cần tránh hành chính hóa ở các PTNTĐ và nếu là đứa con xuất sắc của gia đình thì phải có chính sách đặc biệt hơn so với chính sách với những đứa con bình thường khác, nếu cào bằng chính sách thì kết quả lại cũng cào bằng. Bởi những nỗ lực từ dưới lên sẽ chỉ được ươm mầm một khi được thụ hưởng những chính sách phù hợp. Sự tồn tại của một PTNTĐ, dù được một người xuất sắc và tận tâm dẫn dắt, cũng vẫn phụ thuộc vào một chính sách có tầm nhìn. “Chỉ thị chuyển đổi xanh của Trung ương đã làm thay đổi tất cả. Những nơi nào muốn chuyển đổi xanh thì họ chủ động gọi điện đến cho chúng tôi để được ứng dụng sản phẩm của chúng tôi, như Petrolimex, Nhà máy lọc dầu Dung Quất, EVN… Chúng ta đầu tư vào những PTNTĐ để tạo ra giá trị và năng lực. Những việc này được tạo ra một cách âm thầm nhưng khi có kết quả thì có sức lan tỏa rất lớn”, GS. Vũ Thị Thu Hà nói về “vận may” của phòng thí nghiệm sau nhiều năm gõ cửa các doanh nghiệp mà phần nhiều nhận về cái lắc đầu.
Việc đi đến bản thiết kế chính sách đặc biệt cho các PTNTĐ, dưới con mắt của chuyên gia đánh giá như bà Nguyễn Thị Thu Oanh, trước tiên cần “đánh giá rõ mục tiêu, sứ mệnh của PTNTĐ. Chúng ta cần nêu rõ sự khác biệt với các phòng thí nghiệm tương tự hiện có để giải thích vì sao chúng ta lại đầu tư. Cái sứ mạng khác thì mới ra kết quả khác và cái mục tiêu khác mới khác”. Bên cạnh đó, để các PTNTĐ được vận hành tương đối liên tục, bà cho rằng, “chúng ta buộc phải xây dựng chương trình đặt hàng dài hạn để các PTNTĐ có được một sân chơi đúng tầm, vừa có kinh phí duy trì bộ máy, vừa có nhiệm vụ thực hiện”. Đây cũng là cơ hội để các PTNTĐ mở và hợp tác, không chỉ giữa giới khoa học với nhau mà còn với cả doanh nghiệp.
Trong số các chính sách cần thiết cho PTNTĐ hoạt động hiệu quả như vậy, GS. Lê Huy Hàm cho rằng, cần có chính sách tạo ra “một quá trình đầu tư dài hạn, ví dụ như lĩnh vực khoa học sự sống chỉ đầu tư 4, 5 năm rồi dừng lại thì không thể phát huy được tác dụng. Đầu tư ở đây cần gắn liền đầu tư về trang thiết bị, con người, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động. Chỉ như thế thì chúng ta mới có thể làm chủ trọn vẹn công nghệ và phát triển hướng nghiên cứu của PTNTĐ”. Tuy nhiên, việc trao môi trường thuận lợi cho các PTNTĐ phát huy tối đa năng lực cũng cần đi kèm với điều kiện là đánh giá. “Chúng ta phải có cơ chế đánh giá hiệu quả để đi đến quyết định là chúng ta đầu tư tiếp hay chúng ta dừng”, theo bà Nguyễn Thị Thu Oanh.
Cơ chế đánh giá ấy, ở góc nhìn của GS. Hồ Tú Bảo (Viện VIASM) và GS. Phạm Hùng Việt (ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN), sẽ giống như chính sách trụ hạng, xuống hạng của các câu lạc bộ bóng đá. Ở các quốc gia đã triển khai chương trình tương tự Việt Nam như Trung Quốc với hệ thống các PTNTĐ quốc gia (Key Labs), Nhật Bản với hệ thống các Trung tâm nghiên cứu xuất sắc (Center of Excellence) đều áp dụng cơ chế đánh giá định kỳ 5 năm hoặc 10 năm một lần để tránh sự trì trệ và tạo ra sự cạnh tranh, phấn đấu giữa các phòng thí nghiệm này. Nếu phòng thí nghiệm nào không đạt tiêu chuẩn, danh hiệu PTNTĐ quốc gia sẽ được gắn cho nơi khác. Như vậy, “mọi thứ sẽ thay đổi và PTNTĐ quốc gia sẽ luôn sống động” – GS. Phạm Hùng Việt. Cơ chế đánh giá này có thể phần nào thay thế hoặc giảm bớt số lượng các đợt thanh tra, kiểm toán như đã từng áp dụng, “ví dụ với phòng thí nghiệm của chúng tôi, tổng cộng có đến 21 đoàn từ cấp bộ trở lên tới làm việc. Mật độ này nhiều quá, cần phải tính toán như thế nào đó để cho cán bộ nghiên cứu cảm thấy thoải mái hơn để làm khoa học” như lời chia sẻ của GS. Lê Huy Hàm.
Đó chính là một số điều kiện cần để các PTNTĐ hoạt động hiệu quả. Dĩ nhiên, việc xây dựng các phương thức quản lý và các cơ chế đầu tư, vận hành và đánh giá hệ thống PTNTĐ như vậy luôn là một chu trình quản lý phức tạp. Làm thế nào để chu trình quản lý đó có thể bao quát và điều chỉnh được cả những mục tiêu mang tính thời điểm và mục tiêu mang tính lâu dài? Liệu Việt Nam có nên học hỏi hoặc bê nguyên một mô hình thành công nào đó từ nước ngoài? GS. Pierre Darriulat, nguyên Giám đốc khoa học Trung tâm hạt nhân châu Âu (CERN) sau hơn 20 năm sống và làm việc tại Việt Nam, cho rằng “Có hai yếu tố thiết yếu với việc quản lý thành công, đó là liêm chính và năng lực. Các cách quản lý đúng đắn đảm bảo được cả hai yếu tố này là việc sử dụng các tổ công tác và các ủy ban tư vấn. Những lời khuyến nghị hoặc tư vấn của họ sẽ có vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định cuối cùng”. Theo quan điểm của ông, việc xây dựng các tổ công tác hoặc ủy ban tư vấn này cũng cần dựa trên sự liêm chính và năng lực.
Điểm giao thoa giữa góc nhìn nhà quản lý từ trên xuống (top down) và góc nhìn nhà khoa học từ dưới lên (bottom up) cũng chính là liêm chính và năng lực. Đó cũng là cách để một dự án lớn tránh nguy cơ lãng phí, cả nguồn lực đầu tư và chất xám.
Có lẽ, những bài học từ quá khứ chính là lời gợi ý quan trọng cho một sự khởi đầu mới. □
——–
1 https://chinhphu.vn/cac-nhiem-vu-khoa-hoc-cong-nghe/cac-phong-thi-nghiem-trong-diem-10001117
2 https://www.most.gov.vn/cchc/tin-tuc/493/4121/kiem-tra-hoat-dong-cua-phong-thi-nghiem-trong-diem-cong-nghe-te-bao-thuc-vat.aspx
Bài đăng Tia Sáng số 10/2025