Siêu cường khoa học Mỹ: Những giá trị có thể mất
Sự thống trị toàn cầu của nước Mỹ trong khoa học không phải tình cờ, mà là sản phẩm của một mối quan hệ đối tác công tư có tầm nhìn dài hạn để thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng kinh tế. Nhưng hiện nay, nền khoa học Mỹ đang bị phá hoại bởi một tầm nhìn ngắn hạn của chính quyền Trump.

Từ ngày 20/1/2025, khoa học Mỹ đã bị đảo lộn bởi những cắt giảm của chính quyền Tổng thống Donald Trump. Một loạt những cắt giảm đột ngột về tài trợ nghiên cứu và ngân sách – trong đó có việc Viện Sức khỏe Quốc gia (NIH) cắt các khoản hoàn chi phí nghiên cứu gián tiếp cho các trường đại học từ khoảng 50% tới 15% – và những cuộc cắt giảm sâu về nhân sự ở các cơ quan nghiên cứu đã làm chấn động cả cộng đồng khoa học.
Những cắt giảm này đe dọa toàn bộ nền khoa học Mỹ. Suốt hơn tám thập kỷ, nước Mỹ độc chiếm vị trí dẫn đầu thế giới về phát minh khoa học và đổi mới công nghệ. Mỗi năm, từ các trường đại học Mỹ sinh ra tổng cộng 1.100 công ty khởi nghiệp có nền tảng khoa học, tạo ra vô vàn sản phẩm giúp cứu mạng và cải thiện cuộc sống cho hàng triệu người, trong đó phải kể đến thuốc tim mạch và ung thư, và các vaccine mRNA giúp đưa thế giới thoát khỏi đại dịch COVID-19.
Những đột phá này có được nhờ một mối quan hệ đối tác bền vững giữa Chính phủ Mỹ và các trường đại học. Hệ thống này vốn được hình thành từ thời chiến nhằm cung cấp ngân sách cho nghiên cứu và phát triển (R&D) vũ khí ở các trường đại học. Nó là nhiên liệu của đổi mới sáng tạo, an ninh quốc gia và tăng trưởng kinh tế Mỹ.
Ngân sách liên bang cho nghiên cứu khoa học ở Mỹ được phi tập trung hóa. Nó chủ yếu hỗ trợ khoa học cơ bản vốn để thỏa mãn trí tò mò của con người, nhưng cũng đề cao tính đổi mới và ứng dụng thương mại.
Nhưng hiện nay, cỗ máy này đang bị phá hoại bởi những nỗ lực của chính quyền Trump nhằm xóa sổ các chương trình nghiên cứu trong những lĩnh vực mà ông không ủng hộ, chẳng hạn biến đổi khí hậu và đa dạng, bình đẳng và hòa nhập, và để kiểm soát biểu tình phản kháng ở các trường đại học. Nhưng những cắt giảm rộng hơn cũng đang phá dỡ chính cấu trúc hạ tầng đã biến nước Mỹ thành một siêu cường khoa học. Khoa học Mỹ đang bị đe dọa, nhẹ nhàng mà nói thì đó là do một cú tự bắn vào chân mình, còn nặng hơn thì có thể nói là do một tầm nhìn ngắn hạn.
Mô hình đổi mới độc nhất
Xương sống đổi mới sáng tạo của nước Mỹ là sự liên kết chặt chẽ giữa chính phủ, các trường đại học và doanh nghiệp. Đó là một hệ sinh thái cân bằng: các nghiên cứu nhận ngân sách liên bang tại các trường đại học sẽ tạo ra những tiến bộ khoa học, những tiến bộ khoa học đó, đến lượt mình, lại tạo ra công nghệ, bằng sáng chế và công ty. Hệ thống này xuất hiện ngay sau Thế chiến II, bắt nguồn từ tầm nhìn của cố vấn khoa học của Tổng thống, Vannevar Bush, và một Quốc hội có tầm nhìn dài hạn nhận thấy rằng sức mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ đều xoay quanh việc đầu tư vào khoa học.
Hệ thống này thực ra có thể đi theo hướng khác. Trước Thế chiến II, Anh là nước dẫn đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực khoa học, nhưng sự chú trọng vào các phòng thí nghiệm trung tâm của nhà nước thay vì hợp tác với trường đại học đã làm tê liệt quá trình thương mại hóa hậu chiến. Tuy nhiên, Mỹ chuyển ngân sách nghiên cứu thời chiến cho các trường đại học, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân triển khai các đột phá khoa học, từ đó thúc đẩy sự bùng nổ kinh tế sau chiến tranh. Mối quan hệ đối tác này trở thành nền tảng của Thung lũng Silicon và các ngành công nghiệp hàng không vũ trụ, hạt nhân và công nghệ sinh học.

Sự khác biệt giữa Hai hệ thống quản lý khoa học của Mỹ và Anh Khi Winston Churchill trở thành Thủ tướng Anh vào năm 1940, bên cạnh ông là cố vấn khoa học, nhà vật lý Frederick Lindemann. Những ưu tiên công nghệ của nước Anh trong thời chiến chú trọng vào quốc phòng và tình báo – chẳng hạn vũ khí điện tử, phòng không radar và kế hoạch phát triển vũ khí hạt nhân. Tổ chức phá mã của họ ở Bletchley Park, Anh, khi đó đã sử dụng các máy tính điện tử đầu tiên để đọc các thông điệp mật của Đức. Dưới thời Churchill, Lindemann tác động đến việc dự án nào được tài trợ, dự án nào bị gạt đi. Cách tiếp cận tập trung, từ trên xuống của ông, với việc phát triển vũ khí chủ yếu nằm ở các phòng thí nghiệm của chính phủ, đã định hình sự đổi mới sáng tạo của Anh trong Thế chiến II, và dẫn đến sự lụi tàn của nó sau chiến tranh. Trong khi đó, ở Mỹ, Vannevar Bush, nguyên trưởng khoa Kỹ thuật của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) ở Cambridge (Massachusetts), trở thành cố vấn khoa học của Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt vào tháng 6/1940. Bush nói với ông ta rằng chiến tranh sẽ phân thắng bại trên nền tảng tiến bộ công nghệ. Ông thuyết phục Roosevelt rằng mặc dù quân đội và hải quân vẫn cần tiếp tục sản xuất vũ khí thông thường (máy bay, tàu chiến, xe tăng), các nhà khoa học có thể phát triển những vũ khí tân tiến hơn và nhanh hơn. Ông lập luận rằng cách duy nhất để các nhà khoa học làm việc năng suất là để họ làm việc trong môi trường đại học, trong các phòng thí nghiệm vũ khí dân sự do các nhà khoa học vận hành. Roosevelt đồng ý. Năm 1941, Bush thuyết phục Tổng thống rằng các nhà khoa học nên tiếp cận và thử nghiệm các vũ khí hiện lúc đó được sản xuất hàng loạt bởi các công ty Mỹ. Để thực hiện điều này, Bush lập ra Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển Khoa học2. Đứng đầu mỗi bộ phận là một nhà khoa học do chính Bush lựa chọn. Và các bộ phận này đặt ở các trường đại học, trong đó có MIT, Đại học Harvard, Đại học Johns Hopkins, Viện Công nghệ California, Đại học Columbia và Đại học Chicago. Gần 10.000 nhà khoa học, kỹ sư, giảng viên và sinh viên của họ được miễn quân dịch để làm việc trong các phòng thí nghiệm đại học này. Công việc của họ dẫn tới sự phát triển trong nhiều lĩnh vực công nghệ, trong đó có điện tử, radar, tên lửa, napalm và bazooka, penicillin và thuốc sốt rét, cũng như vũ khí hóa học và hạt nhân. Nguồn tiền từ chính phủ – 9 tỷ USD (quy đổi 2025) giữa 1941 và 1945 – đã thay đổi các trường đại học Mỹ, và cả thế giới. Trước chiến tranh, nghiên cứu khoa học được tài trợ chủ yếu bởi các tổ chức phi lợi nhuận và các công ty. Giờ thì các trường đại học Mỹ nhận được nhiều tiền chưa từng thấy. Họ là đối tác chính thức trong nghiên cứu thời chiến chứ không chỉ còn là nơi cung cấp nhân tài. Nước Anh thời chiến có những ràng buộc khác. Thứ nhất, Anh bị ném bom hằng ngày và bị tàu ngầm phong tỏa, vì vậy tập trung vào một số ít dự án là hợp lý. Thứ hai, nó đang bấp bênh trên bờ vực phá sản. Nó không thể đầu tư những khoản lớn như Mỹ. Nhiều lĩnh vực mới – như máy tính và nghiên cứu hạt nhân – bị thiếu đầu tư. Và khi Churchill thất cử năm 1945, rời đi cùng ông là Lindemann và sự điều phối của nền khoa học và kỹ thuật Anh. Chính sách khắc khổ hậu chiến dẫn đến cắt giảm ở mọi phòng thí nghiệm của chính phủ và hạn chế đổi mới sáng tạo. Thực tại kinh tế khác biệt giữa Mỹ và Anh cũng góp phần định hình hệ thống đổi mới của hai nước. Mỹ có nền tảng công nghiệp khổng lồ, nguồn tư bản dồi dào và thị trường nội địa lớn, cho phép đầu tư quy mô lớn cho nghiên cứu và phát triển. Ở Anh thì các ngành công nghiệp then chốt được quốc hữu hóa, dẫn đến giảm cạnh tranh và làm chậm tiến bộ công nghệ. Mặc dù các đại học Anh như Cambridge và Oxford vẫn đi đầu thế giới về khoa học lý thuyết, họ gặp khó khăn trong việc thương mại hóa các đột phá khoa học. Chẳng hạn, nhưng công trình tiên phong về tin học tại Bletchley Park đã không trở thành một nền công nghiệp máy tính phát triển như ở Mỹ. Thiếu sự hỗ trợ từ chính phủ, đổi mới sáng tạo sau chiến tranh ở Anh không bao giờ cất cánh nổi. Trong khi đó, các trường đại học và công ty Mỹ nhận ra rằng nguồn tài trợ nghiên cứu của chính phủ trong thời chiến là một máy gia tốc tuyệt vời cho khoa học và kỹ thuật. Tất cả mọi người đồng ý rằng nó nên được tiếp tục. Năm 1950, Quốc hội Mỹ thành lập Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ để tài trợ mọi nghiên cứu cơ bản ở Mỹ (ngoại trừ các khoa học sự sống, sẽ do NIH đảm nhận). Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Mỹ được thành lập từ Dự án Manhattan và quân đội tiếp quản phần phát triển vũ khí. Năm 1958, Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng Tiên tiến3 và NASA được thành lập như các cơ quan nghiên cứu quốc gia. Và theo đó là hàng thập kỷ bùng nổ kinh tế. |
Chính phủ Mỹ vẫn là nguồn tài trợ R&D lớn nhất trên thế giới – với ngân sách liên bang cho R&D khoảng 201,9 tỷ USD cho năm tài chính 2025. Nguồn này sẽ được đổ vào hơn hai chục cơ quan nghiên cứu để rồi các cơ quan lại cấp tài trợ trực tiếp, tổng cộng 59,7 tỷ USD năm 2023, cho các trường đại học, trong đó Viện Nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia (NIH) và Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) nhận được nhiều nhất.
Các cơ quan này làm vậy là có lý do: họ muốn các giáo sư đại học làm nghiên cứu cho họ. Đổi lại, các cơ quan này nhận lại kết quả nghiên cứu cơ bản từ các trường đại học giúp thúc đẩy nền khoa học, hoặc nghiên cứu ứng dụng giúp tạo ra prototype (phiên bản thử nghiệm) của các sản phẩm tiềm năng. Bằng cách hợp tác với các trường đại học, các cơ quan đầu tư tiền hiệu quả hơn và nhanh có được kết quả mới hơn so với việc tự mình làm nghiên cứu.
Đó là do các trường đại học có thể kết hợp khoản đầu tư của chính phủ cùng với những khoản đầu tư khác mà họ kiếm được. Chẳng hạn, năm 2023, các trường đại học Mỹ nhận 27,7 tỷ USD từ các nhà hảo tâm, 6,2 tỷ từ hợp tác với các công ty, 6,7 tỷ từ các tổ chức phi lợi nhuận, 5,4 tỷ từ bang và chính quyền địa phương, và 3,1 tỷ từ các nguồn khác, qua đó nâng 59,7 tỷ thành 108,8 tỷ (xem sơ đồ minh họa). Nguồn tiền bên ngoài này chủ yếu được dùng để xây dựng các phòng thí nghiệm và các tòa nhà thường mang tên người tài trợ.
Một bộ phận cốt yếu nhưng thường không được đánh giá đúng mức của hệ sinh thái khoa học Mỹ là hệ thống hoàn chi phí gián tiếp, nó cho phép các trường đại học duy trì những cơ sở vật chất và hỗ trợ hành chính cần thiết cho nghiên cứu đột phá. Không có sự hỗ trợ này, các trường đại học không thể duy trì nghiên cứu khoa học ở tầm quốc tế.
Và như vậy, ngân sách liên bang cho nghiên cứu khoa học ở Mỹ được phi tập trung hóa. Nó chủ yếu hỗ trợ khoa học cơ bản vốn để thỏa mãn trí tò mò của con người, nhưng cũng đề cao tính đổi mới và ứng dụng thương mại. Tự do học thuật được trân trọng và việc cạnh tranh xin tài trợ được quản lý qua bình duyệt. Các quốc gia khác, trong đó có Trung Quốc và các nước châu Âu, thường có các cách tiếp cận tập trung hóa và quan liêu hơn.
Nhưng điều khiến hệ sinh thái khoa học Mỹ thật sự mạnh mẽ là những gì diễn ra tiếp sau khi các nghiên cứu đã được nghiệm thu: các kết quả khoa học là cỗ máy tạo ra các công ty khởi nghiệp và việc làm. Năm 2023, các trường đại học Mỹ cấp 3000 bằng sáng chế, 3200 quyền tác giả và 1600 giấy phép khác cho các startup công nghệ cũng như các doanh nghiệp đang tồn tại. Đến lượt mình, mỗi năm những công ty này lại “phái sinh” ra hơn 1100 công ty khởi nghiệp có nền tảng khoa học, dẫn đến vô vàn sản phẩm.
Kể từ đạo luật Bayh-Dole năm 1980, các trường đại học Mỹ được giữ quyền sở hữu của các phát minh sinh ra từ các nghiên cứu sử dụng ngân sách liên bang. Trước đạo luật này, mọi bằng sáng chế bắt nguồn từ nghiên cứu được chính phủ tài trợ thuộc sở hữu của chính phủ, do vậy thường không được sử dụng.

Để khép lại chu trình, các công ty khởi nghiệp công nghệ này nhận được một khoản tài trợ hạt giống 4 tỷ USD hằng năm cũng từ các cơ quan nghiên cứu của chính phủ. Các quỹ đầu tư mạo hiểm mở rộng quy mô của các khoản đầu tư đó lên tới 171 tỷ USD.
Tất cả tạo nên một chu trình tốt đẹp của khám phá và đổi mới sáng tạo.
Hệ thống hoàn chi gián tiếp
Một bộ phận cốt yếu nhưng thường không được đánh giá đúng mức của hệ sinh thái khoa học Mỹ là hệ thống hoàn chi phí gián tiếp, nó cho phép các trường đại học duy trì những cơ sở vật chất và hỗ trợ hành chính cần thiết cho nghiên cứu đột phá. Những kẻ chỉ trích thường hiểu sai chức năng của các quỹ hoàn chi phí gián tiếp này, họ cho rằng các trường đại học có thể chi sai mục đích, như cho các chương trình mang tính phong trào liên quan tới đa dạng, bình đẳng và hòa nhập. Trong thực tế, chúng được chi cho cơ sở hạ tầng thiết yếu: không gian phòng thí nghiệm, đảm bảo các quy định an toàn, lưu trữ dữ liệu và hỗ trợ hành chính để các chủ nhiệm đề tài có thể tập trung vào khoa học thay vì thủ tục giấy tờ. Không có sự hỗ trợ này, các trường đại học không thể duy trì nghiên cứu khoa học ở tầm quốc tế.
Việc hoàn chi phí gián tiếp cho các trường đại học bắt đầu từ trong Thế chiến II, và tạo ra bước ngoặt không khác gì các chương trình phát triển vũ khí đã từng làm. Khác với một hợp đồng có giá cố định, chính phủ không đặt ra các yêu cầu mà các nhà khoa học của các trường đại học cần đạt được, hoặc những mô tả chi tiết mà họ phải dựa theo để thiết kế nghiên cứu của mình. Chính phủ yêu cầu họ làm nghiên cứu, và nếu nghiên cứu đó có vẻ sẽ giải được một bài toán cho quân đội thì xây dựng một sản phẩm mẫu để thử nghiệm. Đổi lại, chính phủ trả thù lao cho các nhà khoa học bằng chi phí nghiên cứu trực tiếp và gián tiếp.
Ban đầu, chi phí gián tiếp chính phủ trả cho các trường đại học có tỷ lệ cố định, bằng 25% chi phí trực tiếp. Không như các doanh nghiệp, các trường đại học không có biên lợi nhuận, do đó thu lại chi phí gián tiếp là cách duy nhất để họ trả và duy trì cơ sở hạ tầng nghiên cứu. Khi chiến tranh kết thúc, một số trường đại học đã thỏa thuận được tỷ lệ 50%.(ND: Ví dụ, NIH tài trợ cho một trường đại học chi phí trực tiếp dùng để nghiên cứu là 100.000 USD, thì họ sẽ trả thêm 25.000 – 50.000 USD nữa (chi phí gián tiếp) sau đó để trường đó duy trì phòng thí nghiệm, máy móc, vật tư…). Nhiều người hiểu nhầm là tỷ lệ chi phí gián tiếp được tính trên toàn bộ kinh phí đề tài, thí dụ tỷ lệ 50% được hiểu thành một nửa kinh phí được dành cho chi phí gián tiếp.
Nếu nước Mỹ phá dỡ cơ sở hạ tầng nghiên cứu của mình, những đột phá xoay chuyển tương lai – dù là trong tính toán lượng tử, điều trị ung thư, tự động hóa hay trí tuệ nhân tạo – sẽ xảy ra ở nơi khác. Nước Mỹ có nguy cơ trở nên phụ thuộc vào sự dẫn dắt khoa học của nước ngoài để phục vụ những nhu cầu kinh tế và an ninh của chính mình.
Sau Thế chiến II, Phòng Nghiên cứu Hải quân Mỹ (ONR) bắt đầu thương lượng tỷ lệ chi phí gián tiếp với các trường đại học trên cơ sở chi tiêu thực của trường. Các trường đại học phải chứng minh chi phí gián tiếp của mình (hành chính, cơ sở vật chất, vật dụng) để được hoàn tiền. ONR chính thức hóa các quy trình kiểm toán tài chính để đảm bảo các trường báo cáo chi phí chính xác. Điều này dẫn đến thông lệ thương lượng chi phí gián tiếp vẫn được dùng tới ngày nay.
Từ đó, quy trình hoàn chi phí gián tiếp đã được điều chỉnh để ngăn chặn việc lạm dụng hệ thống, nhưng về cơ bản vẫn giữ nguyên. Các trường đại học thương lượng tỷ lệ chi phí gián tiếp với Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh (HHS) hoặc với ONR. Hầu hết các trường đại học nghiên cứu mạnh nhận được tỷ lệ 50-60% cho nghiên cứu trong khuôn viên trường. Các quỹ tư nhân thường có tỷ lệ thấp hơn (10-20%) nhưng danh mục những thứ được chi trả trong chi phí trực tiếp lại nhiều hơn.
Năm 2017, chính quyền Trump lần đầu định đặt mức trần 10% cho chi phí gián tiếp dành cho các nghiên cứu của NIH. Một số thành viên chính quyền cho rằng những chi phí đó dẫn đến việc làm phình đại bộ máy hành chính quan liêu của các trường và lập luận rằng các trường đại học nghiên cứu đang trục lợi từ việc thổi phồng chi phí vận hành.

Quốc hội phủ quyết điều này và sau đó thêm từ ngữ vào luật ngân sách hằng năm, về cơ bản giữ nguyên hầu hết mức mà các trường đã thỏa thuận được kể từ năm 2017. Sự đề phòng này được biểu hiện ở mục 224 của Luật Phân bổ Hợp nhất 20241, đến nay đã được bổ sung hai lần và vẫn còn hiệu lực.
Tuy nhiên, vào tháng hai vừa rồi, NIH cắt tỷ lệ hoàn chi phí gián tiếp xuống một con số ngẫu nhiên là 15%. Chính sách này hiện đang bị kiện.
Nếu chính sách đó được cho phép tiến hành, hậu quả sẽ đến ngay lập tức. Hàng tỷ đô-la hỗ trợ các trường đại học nghiên cứu sẽ biến mất. Để chuẩn bị, một số trường đại học nghiên cứu đã bắt đầu giảm quy mô ngân sách, ngừng mở rộng các phòng thí nghiệm và giảm tài trợ cho nghiên cứu sinh. Điều này sẽ có nghĩa là ít công ty khởi nghiệp được thành lập hơn, ảnh hưởng đến sản phẩm, dịch vụ, việc làm, thuế và xuất khẩu.
Chạy đua thu hút nhân tài
Rung chấn của những cắt giảm của Trump đối với giới khoa học Mỹ đang dần lan rộng, và một hậu quả sẽ đến ngay lập tức là thất thoát nhân tài khoa học. Trong lịch sử, Mỹ vốn là điểm đến hàng đầu cho các nhà khoa học quốc tế, nhờ các trường đại học được tài trợ hào phóng, nền kinh tế lấy đổi mới sáng tạo làm động lực, và rất nhiều cơ hội để thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học.
Các nhà khoa học được đào tạo ở Mỹ – nhiều người trong số đó đã ở lại lập các công ty khởi nghiệp hoặc đóng góp vào R&D của các tập đoàn – đang được tích cực chiêu mộ bởi các cơ sở ngoài nước Mỹ, đặc biệt là ở Trung Quốc, nước đã tăng cường đầu tư cho khoa học. Trung Quốc đã mở rộng Chương trình Một nghìn tài năng, đưa ra những khích lệ tài chính đáng kể cho những nhà khoa học sẵn sàng di dời. Pháp và các quốc gia châu Âu đang bắt đầu thiết kế các gói thu hút các nhà khoa học Mỹ hàng đầu.
Sự xói mòn của lực lượng khoa học Mỹ sẽ có những hệ quả lâu dài đối với khả năng đổi mới sáng tạo của nó. Nếu nước Mỹ phá dỡ cơ sở hạ tầng nghiên cứu của mình, những đột phá xoay chuyển tương lai – dù là trong tính toán lượng tử, điều trị ung thư, tự động hóa hay trí tuệ nhân tạo – sẽ xảy ra ở nơi khác. Nước Mỹ có nguy cơ trở nên phụ thuộc vào sự dẫn dắt khoa học của nước ngoài để phục vụ những nhu cầu kinh tế và an ninh của chính mình.
Lịch sử cho thấy, một khi một quốc gia đánh mất vai trò lãnh đạo trong khoa học, rất khó để lấy lại nó. Nước Anh chưa bao giờ lấy lại được vị thế thống trị trước chiến tranh về đổi mới công nghệ. Nếu xu hướng hiện tại tiếp tục, định mệnh tương tự có thể đang chờ nước Mỹ.
Nghiên cứu trong trường đại học không chỉ là vấn đề học thuật – nó là nhu cầu kinh tế và chiến lược cấp thiết. Các nhà hoạch định chính sách phải nhận ra rằng đầu tư quốc gia cho R&D không phải chi phí, mà là chất xúc tác cho tăng trưởng, tạo việc làm và an ninh quốc gia.
Các nhà hoạch định chính sách cần tái khẳng định cam kết của nước Mỹ đối với vai trò lãnh đạo khoa học. Nếu Mỹ không hành động ngay bây giờ, hậu quả sẽ ảnh hưởng nhiều thế hệ. Câu hỏi không còn là liệu nước Mỹ có đủ sức đầu tư vào nghiên cứu hay không. Mà là liệu nó có đủ sức để gánh hậu quả khi không đầu tư hay không.□
Nguyễn Hoàng Thạch dịch
Nguồn: Nature 640, 599-601 (2025)(https://www.nature.com/articles/d41586-025-01146-4)
——
Chú thích
1 Consolidated Appropriations Act of 2024.
2 US Office of Scientific Research and Development.
3 US Defense Advanced Research Projects Agency (DARPA).
Bài đăng Tia Sáng số 11/2025