Các nhà máy xử lý nước thải có bỏ sót vi nhựa?
Vi nhựa, từ quá trình sinh hoạt của con người, đã xâm nhập vào môi trường thông qua đường nước thải. Vậy các nhà máy xử lý nước thải hiện tại có loại bỏ được vi nhựa, sau quá trình xử lý nước? liệu đây có phải là một nguồn tiềm năng gây ô nhiễm vi nhựa?

Những câu hỏi này là mục tiêu nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học tại Viện Công nghệ năng lượng và môi trường, Đại học KH&CN Hà Nội (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), ĐH Tài nguyên & Môi trường và ĐH Gustave Eifel.
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã phát hiện ra vi nhựa có trong các hệ sinh thái nước ngọt (sông, kênh rạch, ao hồ…) cũng như hệ sinh thái nước mặn (cửa biển, đầm phá ven biển, bãi biển). Một trong những nguồn đóng góp là các nhà máy xử lý nước thải địa phương, tuy nhiên, việc tìm hiểu về quá trình này vẫn còn rất sơ khởi.
Đây là lý do nhóm nghiên cứu đã thu thập các mẫu nước thải ở bể thu gom và nước đã qua xử lý ở đầu ra tại 18 nhà máy xử lý nước thải, đặt ở Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Nam Định và Phú Thọ. Kết quả phân tích cho thấy, vi nhựa có trong tất cả các mẫu và chủ yếu ở dạng sợi, chiếm khoảng 63 đến 97,5% tổng lượng vi nhựa; tiếp theo là dạng mảnh, từ 2,2 đến 36%; dạng hình cầu từ 0,1 đến 1,2%. Vi nhựa từ tám loại polymer: 52,1% là nhựa nhiệt dẻo polyethylene (PE) – phổ biến để làm ống nhựa, mút cứng, túi nhựa..; 32% là nhựa polypropylene (PP) – tạo các sản phẩm ống, màng, dây cách điện, kéo sợi và các sản phẩm tạo hình; 7,1% nhựa polyester (PES) – dùng trong ngành dệt.
Các nguồn chính của vi nhựa trong nước thải sinh hoạt là từ các sản phẩm chăm sóc cá nhân, giặt giũ, khẩu trang thải bỏ, sự phong hóa của các sản phẩm nhựa gia dụng. Các căn hộ ở đô thị là nơi phát thải nhiều vi nhựa trong nhà nhiều nhất, chủ yếu ở kích cỡ 100 µm, chủ yếu từ quần áo, rèm cửa, nội thất… rồi gia nhập nước thải sinh hoạt thông qua quá trình giặt giũ, lau dọn.
Trong nước thải công nghiệp, sự lấn át của vi nhựa dạng sợi với 92,3 đến 95,2% từ nhà máy thiết bị điện và điện tử, chủ yếu là các lớp bảo vệ, tấm bọc các thiết bị điện, điện tử. Trong các sản phẩm dạng này, thành phần nhựa thường chiếm 3,5 đến 49,1% tổng khối lượng và nhựa epoxy được dùng sản xuất bo mạch.
Bệnh viện và trung tâm y tế cũng sử dụng các sản phẩm nhựa hoặc nhựa dùng một lần như găng tay, khẩu trang, túi, kính bảo hộ, hộp thuốc… Dẫu được quản lý nhưng các thực hành quản lý chưa tốt khiến chúng đi vào nước, phát thải vi nhựa. Mặt khác, việc tái sử dụng, các phương pháp khử trùng, bao gồm chiếu tia UV, hấp, rửa cồn có thể làm gia tăng lượng vi nhựa.
Các nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt, về tổng thể, có hiệu suất giảm lượng vi nhựa thấp hơn so với nhà máy xử lý nước thải công nghiệp và y tế. Trong số sáu nhà máy xử lý nước thải công nghiệp, hiệu suất loại bỏ vi nhựa cao nhất là nhà máy ở Bắc Giang với việc loại được 80,8%±4.2%. Ở các trạm xử lý nước thải y tế, mức loại bỏ vi nhựa nhiều nhất là các trạm ở Hà Nội, trong đó cao nhất đạt mức 71,8±1,6%.
Kết quả chứng tỏ, trung bình khoảng 2.9× 1010 hạt vi nhựa phát tán vào môi trường nước ở Hà Nội mỗi ngày từ cả nước chưa qua xử lý và đã qua xử lý từ nguồn sinh hoạt, công nghiệp, y tế. Trong tổng lượng vi nhựa có trong môi trường nước, nguồn sinh hoạt chiếm 80,3%, công nghiệp chiếm 19,6%. Lượng phát sinh cao cùng với năng lực có giới hạn ở các nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt cho thấy trong tương lai cần quan tâm đến lĩnh vực này hơn. Điều này cũng cho thấy, quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam phải đối diện với nhiều thách thức, như thói quen tiêu dùng không bền vững, nhận thức chưa cao về sản phẩm nhựa, vì vậy hoàn thiện chính sách quản lý chất thải nhựa và tăng nguồn lực đầu tư để cải thiện các nhà máy tái chế, xử lý chất thải nhựa.
Kết quả được nêu chi tiết trong bài báo “Microplastics in wastewater and the role of local wastewater treatment stations in controlling microplastic pollution: a case study from Vietnam”, xuất bản trên tạp chí Environmental Monitoring and Assessment.
Bài đăng Tia Sáng 2025