ĐBSCL: Con người làm khuếch đại sự bất thường của xâm nhập mặn
Các nhà nghiên cứu ở ĐHQG TPHCM, Trung tâm Khí tượng thủy văn Quốc gia và Viện Khoa học địa chất ứng dụng Karlsruhe, Viện Công nghệ Karlsruhe, ĐH Potsdam đã phát hiện ra hành động của con người làm khuếch đại tác động của xâm nhập mặn. Vì vậy, những chiến lược để làm giảm bớt tác động của xâm nhập mặn phải tính đến các đập thủy điện thượng nguồn.

ĐBSCL được coi là một trong số những điểm nóng về căng thẳng nước ngọt và thiếu trữ lượng nước trầm trọng. Hiện ĐBSCL thuộc số các vùng chịu rủi ro sinh thái bậc nhất toàn cầu, khi bị ảnh hưởng bởi vô số sức ép môi trường, góp phần thúc đẩy tiến trình “mất đất và nước ngọt”, và hệ quả là thúc đẩy xâm nhập mặn. Trước đây, ở vùng ven biển, xâm nhập mặn là một quá trình tự nhiên xuất hiện vào mùa khô, từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, xâm nhập mặn đã xuất hiện trong đất liền tới hơn 90 km khiến cho tình trạng này trở nên đáng lo ngại, dẫn đến rủi ro mùa vụ nuôi tôm hay trồng trọt.
Do đó, các nhà nghiên cứu đã tích hợp dữ liệu mưa, mực nước sông và thời gian xả thải của các đập thượng nguồn theo thời gian để mô tả một cách có hệ thống động lực xâm nhập mặn sông và nhận diện những động lực chính của các dao động xâm nhập mặn và sự tiến hóa của nó ở ĐBSCL. Đặc biệt họ muốn phân tích nguyên nhân của các sự kiện xâm nhập mặn cực đoan và hiểu sự kết nối của chúng với hạn thủy văn, lún đất và các thực hành quản lý nước thượng nguồn.
Họ đã phân tích các mô hình theo mùa và các biến động độ mặn liên năm từ năm 2000 đến năm 2022. Họ nhận thấy ở ĐBSCL, lượng mưa đạt đỉnh trong mùa mưa, thường cao nhất vào tháng 8 và tháng 9, gây ra mực nước dâng hằng năm tại Tân Châu. Khi lưu lượng xả của sông Cửu Long truyền xuống hạ lưu, mực nước đỉnh trên Cà Mau xảy ra giữa tháng 11 và tháng 12 với độ trễ thời gian từ một đến vài tuần so với Tân Châu do độ dốc thấp của đồng bằng.
Biến động hằng năm về mực nước và lưu lượng thượng nguồn góp phần trực tiếp vào biến động độ mặn ở ĐBSCL. Bởi việc vận hành đập và quản lý hồ chứa làm thay đổi đáng kể sự phân bố lưu lượng xả hằng năm. Các trạm ven biển cho thấy xu hướng độ mặn tăng vào tháng 2, có thể là do lưu lượng xả đầu mùa khô giảm từ tháng 11 đến tháng 2 do quản lý nước thượng nguồn. Dù các cửa cống giúp giảm xâm nhập mặn trong các khu vực được bảo vệ nhưng chúng có thể làm tăng độ mặn cao hơn ở hạ lưu. Hiệu ứng này thể hiện rõ ở mức độ mặn tăng cao, vì nhiều cửa cống được xây dựng dọc theo sông Gành Hào và sông Ông Đốc để bảo vệ các kênh phụ khỏi xâm nhập mặn. Vào tháng 4, lưu lượng nước tăng bắt đầu ảnh hưởng đến độ mặn tại Cà Mau, dẫn đến xu hướng giảm nhưng ở sông Ông Đốc cho thấy độ mặn tăng, không được hưởng lợi từ việc tăng lưu lượng nước thượng nguồn.
Vào những năm có độ mặn cực đoan có chung đặc điểm là tình trạng xâm nhập mặn bắt đầu sớm và tình trạng thời kỳ xả nước thấp kéo dài. Lượng mưa giảm trong mùa gió mùa trước dẫn đến mức dung tích hồ chứa thấp trên toàn lưu vực sông Cửu Long, khiến các nhà vận hành hồ chứa ưu tiên bổ sung nước cho hồ chứa vào đầu mùa gió mùa sớm, do đó làm chậm quá trình chuyển đổi từ thời kỳ xả thấp sang thời kỳ xả lũ cao. Vì tình trạng hồ chứa cạn kiệt thường trùng với mùa khô khắc nghiệt hơn, nên hoạt động quản lý này làm trầm trọng thêm tình trạng xâm nhập mặn ở đồng bằng. Hơn nữa, thời điểm bắt đầu gió mùa đã dịch chuyển muộn hơn khoảng hai đến bốn ngày mỗi thập kỷ và thời kỳ gió mùa sớm trùng với mực nước hằng năm thấp nhất ở ĐBSCL. Sự xảy ra đồng thời của những điều kiện này kéo dài thời kỳ xả thải thấp trong một số năm và gây ra các sự kiện xâm nhập mặn cực đoan.
Các kết quả được nêu trong bài báo“Seawater intrusion in river delta systems. Inter-annual dynamics and drivers of salinity variations in the southern Mekong Delta, Vietnam”, xuất bản trên Journal of Hydrology. □
Bài đăng Tia Sáng số 15/2025