Thách thức của ngành công nghiệp cá tra và quản lý dịch bệnh ở ĐBSCL
Các nhà nghiên cứu ĐH Cần Thơ, ĐH Queensland và ĐH Sydney đã khám phá những thách thức đối với ngành công nghiệp cá tra ở ĐBSCL và sự lạm dụng kháng sinh để vượt qua dịch bệnh của nông dân nuôi cá tra.

Việt Nam là nguồn cung cá tra hàng đầu thế giới tổng sản lượng ước tính đạt trên 90 % thị trường toàn cầu. Được ghi nhận như một thành công trong lĩnh vực thủy sản, cá tra nuôi ở ĐBSCL trở thành loài thủy sản phát triển nhanh nhất sau khi thành công trong nhân giống nhân tạo từ đầu những năm 2000. Với tổng diện tích nuôi trên 5.700 ha, 1,71 triệu tấn cá vào năm 2023, xuất khẩu đạt giá trị trên 1.8 tỉ USD tới hơn 140 quốc gia, lĩnh vực này đóng góp lớn vào nền kinh tế quốc gia và việc làm, đồng thời trở thành một nguồn cung cấp protein chất lượng cao, giá cả phải chăng cho các quốc gia thu nhập trung bình và thấp.
Chuỗi sản xuất cá tra ở ĐBSCL bao gồm các trại giống, ương giống, hệ thống nuôi được vận hành một cách phân tán do quy mô nhỏ. Các chuỗi này có mặt trên 10 tỉnh thành (tính đến trước tháng 6/2025), nhưng chủ yếu tập trung ở Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ. Sức tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp này được đặt trong một không gian có giới hạn vì phải chia sẻ nguồn lực với những ngành nông nghiệp khác và khu dân cư đang đặt những thách thức đáng kể với sức khỏe cá nuôi và quản lý môi trường. Sự bùng phát dịch bệnh, sự suy giảm chất lượng nước và sự phụ thuộc vào hóa chất và kháng sinh làm giảm tỉ lệ sống và sản lượng, càng làm tăng sự phức tạp do tình trạng kháng kháng sinh.
Các nhà nghiên cứu đã khảo sát và phỏng vấn có 35 hộ và 10 công ty tại Cần Thơ, An Giang, Long An, Đồng Tháp, Bến Tre. Dù tham gia chuỗi cung cấp cá tra từ 3 đến 25 năm, hơn một nửa trong số này chưa từng được đào tạo qua trường lớp, số được đào tạo ít nhất từ bậc cử nhân ngành thủy sản, chủ yếu trong số 10 công ty tư nhân.
Nhìn chung, mối quan tâm hàng đầu của người nuôi là mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh và giảm sút năng suất ở cả ương nuôi và nuôi thương phẩm. Nhu cầu thị trường ngày càng tăng đã dẫn đến thâm canh nhưng cơ sở hạ tầng và quản lý sức khỏe cá tra không được cải thiện, hệ quả là chất lượng nước giảm và mật độ ký sinh trùng/mầm bệnh gia tăng. Để bù đắp cho tỷ lệ chết bệnh, người nuôi đành tăng mật độ thả nuôi song giải pháp này có thể làm trầm trọng thêm mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh.
Mối quan ngại khác được ghi nhận là chất lượng cá giống giảm sút, dẫn đến giảm sức khỏe cá, đặc biệt là sau khi thả giống. Người nuôi cho rằng việc nhân giống nhân tạo tiềm ẩn khả năng giảm chất lượng giống do nhiều trại thiếu kế hoạch quản lý đàn cá bố mẹ từ trung hạn đến dài hạn, với nguy cơ cận huyết và mất mát di truyền cao.
Bên cạnh đó, quản lý sức khỏe cá đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện để giải quyết các mối quan hệ phức tạp giữa môi trường và sức khỏe cá. Tỷ lệ mắc bệnh và mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng của bệnh có thể liên quan đến chất lượng nước bị suy thoái ở ĐBSCL, do có hóa chất nông nghiệp trong nước luân chuyển và thiếu tuân thủ an toàn sinh học. Mặc dù các ao lắng có xử lý nước thích hợp để giảm bớt bệnh tật và giảm thiểu ô nhiễm nhưng việc áp dụng vẫn còn hạn chế, có thể là do chi phí và công sức. Tương tự như vậy, mặc dù hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) khả thi với các trang trại quy mô vừa và lớn nhưng khó áp dụng với quy mô nhỏ do giới hạn về tài chính và sự không chắc chắn về hiệu suất và chi phí lợi ích.
Họ cũng nhận diện được các bệnh mới nổi gây thiệt hại nghiêm trọng ở các trang trại nuôi thương phẩm bao gồm bệnh vàng da và bệnh sưng bóng hơi nhưng còn thiếu nghiên cứu về những bệnh này. Việc xem xét sự cân bằng giữa lợi ích tiềm năng của việc tiêm phòng và tính an toàn của các biện pháp can thiệp là điều cần thiết để thúc đẩy các biện pháp quản lý sức khỏe trong hoạt động nuôi cá tra ở Việt Nam.
Kết quả được nêu trong bài báo “Striped catfish (Pangasianodon hypophthalmus) farmers’ perspectives on challenges and health management practices in the Mekong Delta, Vietnam: A qualitative study”, xuất bản trên Preventive Veterinary Medicine.
Bài đăng Tia Sáng số 17/2025