Bức tranh Thủy điện Thác Bà của Bùi Trang Chước
Nửa thế kỉ trôi qua, bức tranh vẫn nói cho chúng ta về tầm nhìn của chính mình về sự tiến bộ có thể thay đổi như thế nào.
Lần đầu tiên khi ngắm nhìn bức tranh Thủy điện Thác Bà của Bùi Trang Chước, tôi không thể cảm nổi nó. Nghệ thuật sơn mài của Việt Nam thường diễn đạt những khung cảnh hùng vĩ và nên thơ – núi non, hồ nước, cánh đồng và hồ sen vốn đại diện cho vẻ đẹp thiên nhiên của vùng quê Việt Nam. Nhưng bức tranh sơn mài từ năm 1975 này, diễn tả đập thủy điện đầu tiên của đất nước, sừng sững giữa những ngọn núi mờ sương, thể hiện sự tương phản táo bạo: Một sự ngợi ca nghệ thuật về sự phát triển của nền công nghiệp.
Tác giả là một trong những nghệ sĩ và họa sĩ ảnh hưởng nhất Việt Nam, mặc dù con đường nghệ thuật của ông khác với những người bạn cùng thời. Tốt nghiệp với tấm bằng danh dự trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1941, ông tiếp nhận một quá trình đào tạo khắc nghiệt kết hợp giữa truyền thống châu Á và châu Âu. Khác với những người đồng môn như Lê Phổ (tốt nghiệp năm 1930) và Nguyễn Gia Trí (Tốt nghiệp năm 1936) ghi dấu tên tuổi trên thị trường quốc tế, Bùi Trang Chước (1915-1992) toàn tâm toàn ý cho thiết kế đồ họa và các nhiệm vụ đặt hàng từ nhà nước. Di sản còn đến ngày nay của ông nằm ở việc thiết kế Quốc huy Việt Nam, các bộ tem và thiết kế trên các tờ tiền mà giờ đây vẫn còn đang được sử dụng.
Đập thủy điện Thác Bà thể hiện sự độc đáo của người họa sĩ trong việc sử dụng nghệ thuật sơn mài của Việt Nam. Sự điêu luyện trong chất liệu của ông được chứng minh bằng khổ tranh paranoma (43×120 cm), mà ông thể hiện những sự tương phản dữ dội bằng những kĩ thuật truyền thống. Phần mặt nước tối màu được tạo ra bởi nhiều lớp sơn đen mài tới khi tối thẫm và bóng loáng, trong khi bầu trời sáng ánh lên là nhờ một quá trình tỉ mỉ chồng lớp và mài những lá bạc bên dưới những lớp sơn mài trong suốt. Khối cấu trúc bằng bê tông và thép của đập thủy điện uy nghi trong màu trắng và xám – nhờ việc khảm vỏ trứng và bột nhôm lên bề mặt – đối chọi với màu nước đen thẫm. Vùng xung quanh những ngọn núi trình diễn những hiệu ứng đặc trưng trong nghệ thuật sơn mài Việt Nam: màu xanh lá sống động tạo ra nhờ vào bụi oxit đồng và vàng rực rỡ hiện lên bằng cách xếp những lá vàng giữa những lớp sơn mài xanh lam trong suốt.
Đây không phải là bức tranh đầu tiên của ông về nền công nghiệp – trước đó ông còn có tác phẩm Vịnh Hạ Long (1960) và Khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên (1970) tương tự cũng đặt công trình và hoạt động công nghiệp ở trái tim bức tranh. Kinh nghiệm của ông trong việc thiết kế tem và huy hiệu thể hiện sự chú ý đến chi tiết một cách tỉ mỉ – hãy nhìn vào cách ông diễn tả cột điện và đường dây truyền tải căng ra trong bố cục bức tranh, hay cấu trúc bê tông chi tiết của con đập.
Thời điểm và đối tượng của bức tranh năm 1975 này hàm chứa một ý nghĩa đặc biệt. Hoàn thành cùng với thời điểm thống nhất đất nước, Thủy điện Thác Bà là biểu tượng của sự bền bỉ và hợp tác quốc tế. Bản thân nhà máy phát điện, khánh thành năm 1971, được xây dựng nhờ vào hỗ trợ về tài chính và kĩ thuật từ Liên bang Xô viết, trong giai đoạn Việt Nam vừa tiến hành cuộc chiến tranh giành độc lập vừa xây dựng XHCN. Dưới góc nhìn này, đối tượng công nghiệp với màu sáng nổi bật mang thêm một nghĩa nữa: Vùng nước đen của hồ nước nhân tạo và con đập bê tông ở phần đỉnh của bức tranh giống như ngọn cờ thể hiện quyết tâm hiện đại hóa của Việt Nam. Những đám mây trôi đối chọi với bầu trời đen đặc có thể hiểu là những biểu tượng của niềm hy vọng và thành tựu.
Ngày nay xem lại bức tranh này, sau sự cố suýt vỡ đập vào tháng 9/2024, chúng ta nhìn nó bằng một con mắt khác. Khủng hoảng diễn ra rất dồn dập: những cơn mưa khủng khiếp ở Hà Giang, Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái khiến lưu lượng nước trong đập đạt mức kỉ lục trong lịch sử là 5.600m3/s, gần gấp đôi công suất xả lũ của đập. Mực nước dâng cao nhanh chóng đạt 59.9m, gần chạm tới mức nguy cấp báo động là 61m. Hơn 11.000 người phải sơ tán.
Sự kiện này đem đến một lớp phức tạp mới trong việc diễn giải bức tranh. Thứ từng là một biểu tượng thuần khiết về sự tiến bộ giờ đây mang một ý nghĩa thâm sâu hơn về sự mong manh và trách nhiệm. Là một chuyên gia về biến đổi khí hậu và các hệ thống điện, tôi không thể nhìn vào màu đen trong Đập thủy điện Thác Bà mà không liên tưởng đến những quan ngại về môi trường. Bức tranh đánh dấu khoảnh khắc bước ngoặt của những làn sóng thức tỉnh về môi trường vào những năm 1970 trên thế giới, ngợi ca những thành tựu về công nghệ nhưng cũng khơi gợi sự phản tư về phát triển bền vững.
Với tôi, Đập thủy điện Thác Bà vừa đại diện cho cả thành công và thách thức. Dự án này đã xây nên hồ nhân tạo lớn nhất Việt Nam (235km2), là ngôi nhà của 1.300 hòn đảo và một hệ sinh thái sôi động đang nuôi dưỡng ngành thủy sản và du lịch ở địa phương. Nhưng thảm họa năm 2024 cũng chỉ ra rằng khống chế thiên nhiên phức tạp hơn nhiều so với cái nhìn lạc quan mà bức tranh diễn tả. Những ngọn núi mờ sương mà Bùi Trang Chước khéo léo tạo hình giờ đây như mang đến một dự cảm không lành, như những trận mưa như trút có khả năng tung ra những trận lụt tàn khốc.
Nửa thế kỉ trôi qua, bức tranh vẫn nói cho chúng ta về tầm nhìn của chính mình về sự tiến bộ có thể thay đổi như thế nào. Nghệ thuật hiện đại về môi trường và các dự án cộng đồng, như những tác phẩm dọc bờ sông Hồng ở Phúc Tân, thể hiện sự tham gia của những nghệ sĩ vào sự phát triển đã biến đổi – vừa duy trì cam kết với xã hội trong khi vẫn đan xen những nhận thức về sinh thái.
Giờ đây nhìn lại, sự tái hiện điêu luyện của Bùi Trang Chước về khung cảnh công nghiệp cho ta thấy, sự tiến bộ thật sự không đến từ việc thống trị thiên nhiên, mà từ sự thấu hiểu nó.□
Bài đăng Tia Sáng số 1+2/2025