Camille Saint-Saëns: Tôi đã say mê ngắm nhìn các thiên thể

Khi dành cho tôi cái vinh dự nguy hiểm là quan tâm đến tôi, người ta rất hiếm quên nhắc đến, trong số những phẩm chất tưởng tượng được gán cho tôi, cái phẩm chất của họa sĩ và nhà thiên văn học.

Bức họa nhà soạn nhạc Camille Saint-Saëns.

Họa sĩ ư, tôi không biết vẽ; là học trò của Redouté, mẹ tôi đã vẽ hoa rất đẹp, và tôi được nuôi dạy trong tình yêu hội họa; nhưng từ tình yêu đến việc thực hành nghệ thuật thì còn xa. Nhà thiên văn học ư,  tôi không biết gì về toán học, một công cụ cần thiết trong ngành khoa học về những vì tinh tú, và tôi thậm chí không xứng với danh hiệu nhà thiên văn học nghiệp dư, người có khả năng thực hiện những quan sát thú vị và đóng góp, dù nhỏ bé, vào sự tiến bộ của ngành khoa học đẹp đẽ nhất; tôi hài lòng với việc quan tâm đến nó một cách say mê,  như một con giun đất phải lòng những vì sao.

Từ thuở nhỏ, tôi đã quan tâm đến những thứ thuộc về tự nhiên, khi quan sát côn trùng và cây cối, khi nuôi sâu để xem bướm nở, khi gieo hạt để xem chúng nảy mầm, lớn lên và nở hoa, và với chiếc búa của một nhà địa chất, tôi đi thu thập vỏ sò hóa thạch tại các công trường đá ở Meudon. Làm sao tôi có thể thờ ơ trước vẻ đẹp lộng lẫy của vòm trời? Tôi đã quan sát, bằng một chiếc ống nhòm nhà hát, chi tiết các pha của Mặt trăng, các chòm sao; và tôi đã được giới thiệu với Goldschmidt, người sống cách nhà tôi vài bước chân; một con người phi thường, từ cửa sổ căn hộ nhỏ của mình, với chiếc kính thiên văn dài chưa đầy một mét đặt trên bàn, một trong những người đầu tiên phát hiện ra nhiều trong số hàng trăm hành tinh nhỏ đã hiển lộ cho tới ngày nay. Tôi đã hỏi ông những câu cơ bản và được ông trả lời không mấy nhiệt tình theo lẽ đương nhiên, và tôi chẳng dám gặng hỏi để thỏa mãn nỗi tò mò.


Người ta không thể hình dung được niềm vui mà việc nghiên cứu bầu trời đầy sao mang lại, ngay cả với một dụng cụ nhỏ bé; qua kính thiên văn, các vì sao hoàn toàn thay đổi dáng vẻ; chúng thể hiện những sắc màu đa dạng nhất… Đó là những cảnh tượng tráng lệ phi thường mà ai cũng nên biết đến, và không cần phải là một nhà bác học để biết được.

Nhưng trước đó, khi còn rất nhỏ, tôi đã được bà Amable Tastu, một người bạn của gia đình, dẫn đến Đài thiên văn. Ông bà Tastu rất thân thiết với Arago, và nữ thi sĩ quyến rũ ấy muốn xem Mặt trăng sẽ gây ấn tượng thế nào với tôi khi được nhìn qua một dụng cụ lớn.

Bà Tastu rất xinh đẹp chẳng phải kiểu người mà ngày nay chúng ta gọi là một nhà nữ quyền; với mái đầu oai vệ, vầng trán cao, giọng nói trầm sâu thấm thía, bà có quyền ôm mãi cây đàn lia trong vòng tay nữ thần của mình; nhưng bà biết khi nào nên buông đàn xuống để chuyên tâm chăm lo cho chồng con và nhà cửa. Bà làm thơ vì không thể cưỡng lại, và bà đã viết nên những câu thơ rất hay; cách nói chuyện của bà tránh được thói thông thái rởm và luôn thú vị.

Vậy nên bà đã dẫn tôi đến Đài thiên văn, và ở đó, lần đầu tiên tôi trông thấy chị Hằng tóc vàng ở rất gần mà không tránh khỏi phần nào nỗi kinh hãi được che giấu kỹ. Tôi không hiểu mấy về những gì mình đang nhìn thấy; tôi đã nghe nói về những ngọn núi, và những ngọn núi này, khi nhìn theo phương thẳng đứng như từ góc nhìn của chim chóc và phi công, khiến những ai trên Trái đất chỉ nhìn thấy hình dáng của chúng phải kinh ngạc. Tôi nhớ là mình đã rất ấn tượng trước vẻ ngoài của những đỉnh núi được Mặt trời đang mọc chiếu sáng và trông như những hòn đảo tách biệt khỏi thiên thể này.

***

Tình yêu sét đánh khiến về sau, khi khoảng hai lăm tuổi, tôi đã rất kinh ngạc lúc trông thấy cuốn Thiên văn học phổ thông [Astronomie populaire] của Arago bày ở quầy lưu niệm của Nhà hát Odéon. Cuốn sách được để mở và phô ra hình ảnh cám dỗ của sao Thổ, được tô điểm bằng vành đai bí hiểm. Tôi đã mua cuốn sách và gắng hết sức nghiên cứu nó. Đó là Alpha và Oméga trong kiến ​​thức thiên văn của tôi.

Bức ảnh chòm sao Orion. Ảnh được tạo bằng ứng dụng Star Chart.

Paris về đêm thời đó không tràn ngập ánh sáng như bây giờ, và các vì sao hiện ra khá rõ ràng. Ở quảng trường Vendôme, quảng trường Concorde và cầu Pont-Neuf, người ta trưng bày những chiếc kính thiên văn lớn, nơi mà với hai xu, ta có thể áp mắt vào và nhìn thấy những thiên thể chính yếu trên bầu trời với độ phóng đại rất lớn. Đó là các đài thiên văn của tôi những khi bầu trời Paris, rất thường xuyên bị che mờ bởi sương mù sông Seine, cho phép điều đó. Chính bằng các dụng cụ này mà tôi đã thỏa mãn được nỗi thèm muốn do việc chuyên cần đọc cuốn sách của Arago khơi dậy. Nhưng tôi cũng sớm hiểu ra rằng, để nhìn thiên thể nào đó trên bầu trời, điều cần thiết là phải luôn có một dụng cụ bên mình, ngay cả khi dụng cụ đó có độ tụ xoàng xĩnh, miễn là trong điều kiện hoàn hảo nhất có thể.

Hồi đó tôi sống ở ngoại ô Saint-Honoré, trong một căn hộ hướng Nam và rộng mở đón bầu trời. Thật cám dỗ xiết bao! Nhưng một thiết bị lớn cũng có giá của nó, mà tôi lại không đủ tiền.

Những nỗ lực và sự khéo léo của nhà làm đàn Debain, được trợ lực bằng tài năng của Lefébure-Vély, đã khiến harmonium [đàn organ đạp hơi] trở nên thịnh hành trong các salon, và Debain muốn có những bản song tấu viết cho piano và nhạc cụ mình phát minh. Chớp lấy thời cơ, tôi đã viết sáu bản song tấu nhỏ và xoay đủ tiền để trang trải chi phí tậu một chiếc kính thiên văn do Sécrétan chế tạo; với kích thước nhỏ nhắn (độ mở 8cm), nó là một dụng cụ hoàn hảo. Chuyện này xảy ra năm 1858, và trong lần đầu sử dụng chiếc kính thiên văn của mình, tôi đã may mắn được chứng kiến sự xuất hiện của ​​sao chổi Donati huyền diệu; và mỗi tối tôi đều dõi theo những biến đổi không ngừng và diệu kỳ của nó.

Nhưng tôi đã chẳng ngờ tới tác động của dụng cụ này lên bạn bè và người quen khi nó hiện diện trong nhà mình. Thật là một vụ tai tiếng. Một số người nghĩ là tôi đã phát điên, những người khác lại cho rằng tôi đang từ bỏ âm nhạc để theo đuổi thiên văn học. Các bà các cô thì chê trách tôi vì món chi tiêu thiếu cân nhắc này.

– “Các bà cũng tiêu hoang chừng ấy vào mấy món đồ đăng ten đấy thôi,” tôi đáp trả họ. 

Kể từ hồi ấy mọi thứ đã thay đổi rất nhiều; Camille Flammarion đã làm cho các vì sao trở nên thời thượng, và người ta không còn ngạc nhiên khi thấy những người tuy ngoại đạo với khoa học nhưng lại sở hữu kính thiên văn và kính viễn vọng. Là một trong những người đầu tiên, tôi đã hỗ trợ việc phổ biến khoa học của ông, và ông không bao giờ biết tôi đã làm gãy bao nhiêu mũi giáo để bảo vệ ông. Ban đầu, các nhà thông thái có ác cảm với ông; họ nổi giận trước vị thế của ông nơi dư luận, trong khi công chúng lại chẳng biết đến tên tuổi của các nhà bác học vĩ đại với những công trình nghiên cứu tuy ít người hiểu được nhưng lớn lao và làm khoa học tiến bộ.

– “Các ông nhầm rồi,” tôi nói với họ, “các ông không nhận ra công lao to lớn mà Flammarion đã mang lại cho các ông.”

Công chúng từng chẳng quan tâm gì đến thiên văn học và gần như nhầm nó với chiêm tinh học; họ không hiểu vẻ đẹp cũng như tính hữu dụng của nó; họ chế giễu các nhà thiên văn học. “Flammarion đã mang công chúng đến cho các ông,” tôi nói; “ông ấy nắm được điểm yếu của công chúng khi nói với công chúng về những vấn đề mà với họ có vẻ phù phiếm, bằng cách thảo luận về những cư dân có thể có trên các hành tinh; ông ấy dần dần khiến công chúng quan tâm đến những gì trước đây họ không quan tâm, và khoa học đã thu được lợi ích to lớn từ đó.” Chúng ta biết Hội Thiên văn học đã phát triển thế nào; và tôi có vinh dự được chứng kiến ​​những nhà bác học lỗi lạc nhất, những Faye, những Janssen, ủng hộ hội và người sáng lập xuất sắc của hội. Nếu không có phong trào dư luận mà ông ấy tạo ra, liệu Bischofïsheim có xây Đài thiên văn Nice, liệu các tỷ phú Mỹ có dựng lên trên núi của họ những chiếc kính thiên văn khổng lồ mà nhờ đó chúng ta có rất nhiều khám phá? Đó là điều có thể nghi ngờ.

***

Quay lại vấn đề liên can đến tôi, tôi là nhà thiên văn học, như người ta là họa sĩ vì đã đến Bảo tàng Louvre và Phòng triển lãm để xem tranh, như người ta là nhạc sĩ vì đã nghe các bản giao hưởng của Beethoven tại các buổi hòa nhạc Chủ nhật. Tôi đã nỗ lực tìm hiểu những định luật vĩ đại của thiên văn học, tôi đã say mê ngắm nhìn các thiên thể, và chỉ vậy thôi; nhưng tôi không quá hăng hái thúc giục người khác làm điều tương tự. Người ta không thể hình dung được niềm vui mà việc nghiên cứu bầu trời đầy sao mang lại, ngay cả với một dụng cụ nhỏ bé; qua kính thiên văn, các vì sao hoàn toàn thay đổi dáng vẻ; chúng thể hiện những sắc màu đa dạng nhất; có những ngôi sao vàng, đỏ, xanh lục, trông như những viên đá quý được chiếu sáng rực rỡ; sao Castor gồm hai ngôi1 xanh lục nhạt và tinh tế, bởi nhiều sao hiện ra theo đôi qua kính viễn vọng, và thường thì các ngôi thành phần có màu sắc khác nhau; còn những thứ gọi là tinh vân lớn chứa đầy sao như tinh vân Orion ư? Đó là những cảnh tượng tráng lệ phi thường mà ai cũng nên biết đến, và không cần phải là một nhà bác học để biết được.

Như người ta nói, ta chỉ có thể nhìn thấy một phần rất nhỏ bầu trời, và từ lâu tôi đã mong đến ngày mình có thể nhìn thấy những ngôi sao không thấy được ở vĩ độ Bắc của chúng ta. Tại Quần đảo Canaria, tôi đã có thể chiêm ngưỡng sao Lão Nhân [Canopus] tuyệt đẹp, ngôi sao sáng thứ hai trên bầu trời đêm của Trái Đất chỉ sau sao Thiên Lang [Sirius], và nhìn thấy trên đầu mình, ở thiên đỉnh, những chòm sao mà tôi luôn nhìn thấy ở gần đường chân trời; nhưng như thế vẫn chưa đủ.

Tôi cũng đã nóng lòng chờ đợi, trong lần đầu đi tàu dọc Biển Đỏ, sự xuất hiện của những chòm sao mà mình vẫn chưa biết tới: Nam Thập tự [Croix du Sud], Nhân mã [Centaure], Con thuyền [Navire]! Vì Biển Đỏ trải dài rõ rệt từ Bắc xuống Nam, nên mỗi ngày, khi tàu đi về phía xích đạo, ta sẽ thấy sao Bắc Cực lặn xuống, và khi nó rốt cục chạm đến đường chân trời, ta sẽ thấy chòm Nam Thập tự hiện ra, nhưng đó không phải là một hình chữ thập hoàn hảo. Tôi đi thuyền dọc Biển Đỏ chính là để đến đảo Ceylan. Cách Colombo vài cây số, có một khách sạn quyến rũ tên là Núi Lavinia nằm gần một khu rừng nơi tôi lưu lại một thời gian; và đêm nào tôi cũng dạo bước trên sân thượng mà không thể cưỡng lại mong muốn chiêm ngưỡng bầu trời rực rỡ, nơi bên cạnh Nam Thập tự hiện ra Con thuyềnNhân mã với ngôi sao chính gần Trái đất nhất, hay đúng hơn là gần Mặt trời nhất, bởi so với các khoảng cách giữa chúng thì khoảng cách từ Trái đất đến Mặt trời là một con số hoàn toàn không đáng kể. Mặt Trời đối với chúng ta chỉ là một ngôi sao nhìn gần.

***

Dù chẳng có tài năng khoa học, thi thoảng tôi vẫn gửi thông báo đến tập san của Hội Thiên văn học và phát biểu tại các cuộc họp của hội. Nhưng tôi không phải kiểu người tưởng mình hiểu biết hơn các nhà bác học; tôi chỉ giới hạn bản thân trong việc báo cáo cho hội về những quan sát thu thập được trong các chuyến đi của mình.

Tôi không thể cưỡng lại mong muốn nói về một quan sát được thực hiện ở Biển Đỏ. Phần phía Bắc của vùng biển nổi tiếng này rất hẹp, và khi đi xuống phía Nam, trong ngày đầu tiên, ta có thể trông thấy một dãy núi dài màu hồng nhạt, song song với bờ biển châu Á. Dãy núi này có vẻ vạch ra một đường cong dường như được tạo ra bởi chính hình dạng của chuỗi dài những đỉnh núi này. Đó đương nhiên là ấn tượng ban đầu của tôi.

Nhưng khi nhiều giờ trôi qua và ngày sắp tàn thì dãy núi vẫn luôn có cùng một hình dạng. Nhìn kỹ, tôi thấy những ngọn núi dần dần biến mất dưới đường chân trời phía Bắc, trong khi những ngọn núi khác hiện ra ở phía Nam, và đường cong luôn duy trì một sự cân đối hoàn hảo; và cuối cùng tôi hiểu rằng đường cong hài hòa này không phải thứ gì khác mà chính là dáng cong của Trái đất.

Tôi từng nghe một kẻ khở khạo nói: “Nếu Trái đất tròn thì chúng ta đã thấy rồi!”

Chúng ta thấy; chỉ cần chúng ta biết quan sát.

Một hiện tượng rất ít được công chúng biết đến là cái gọi là ánh sáng hoàng đạo, thứ xuất hiện sau hoàng hôn buổi chiều và trước bình minh buổi sáng. Khó nhìn thấy ở một thành phố quá sáng đèn, nó có thể được nhìn thấy ở nông thôn, nhưng nó rất mờ nhạt trong khí hậu của chúng ta; nó rất tuyệt vời ở châu Phi, thậm chí còn sáng hơn cả dải Ngân hà. Tháng 12/1909 tôi ở Louqsor, và qua một cửa sổ hướng thẳng về Levant, tôi có thể chiêm ngưỡng nó với tất cả vẻ huy hoàng. Khi ấy đang là tháng Ramadan. Người Ả Rập cho rằng đó là bình minh, và hằng ngày, ngay khi nó xuất hiện, một thầy tu báo kinh bắt đầu cất lên giọng hát tuyệt vời ở âm vực cao đến mức cái lạnh buổi sáng cũng chẳng thể làm suy suyển, bất khả xâm phạm như tiếng chim; quả thực, tiếng hát này là cái gì đó giao thoa giữa tiếng chim và tiếng người. Giọng hát này tươi tắn như suối nguồn, bất biến và không biết mệt mỏi; tôi nghe nó không biết chán. Nội dung nó hát thì vượt qua mọi sự phân tích và không thể viết ra.

Và tôi tự hỏi liệu những bản neume bình ca mà chúng ta chẳng còn hiểu được nữa, những bản neume mà ở các ấn bản hiện tại của chúng ta chỉ là một sự rút gọn rất nhiều và chúng ta cho hát lên một cách nặng nề bằng giọng trầm, những bản neume mà Thánh Isidore bảo rằng chỉ một giọng cao, ngọt ngào và trong trẻo mới có thể thích hợp, trong cách thể hiện nguyên thủy, liệu có giống với những khúc vocalise gần như phi thực này, nơi chúng ta bắt gặp những mò mẫm bước đầu của nghệ thuật âm nhạc ở trạng thái mới thành hình hay không.□

Camille Saint-Saëns

Ngọc Anh dịch

Nguồn: ÉCOLE BUISSONNIÈRE – Notes Et Souvenirs

—-

1 Theo kiến thức thiên văn học ngày nay, Castor là ngôi sao sáng thứ hai trong chòm sao Song Tử.

Bài đăng Tia Sáng số 19/2025

Tác giả

(Visited 23 times, 23 visits today)