Châu thổ đi tìm câu chuyện của mình

Với Sóng đồng bằng, Vũ Thành Sơn kể một câu chuyện của riêng mình về châu thổ, về một vùng đất đặc biệt trong lịch sử Việt Nam.

Trong lịch sử văn học viết miền Nam, có nhiều câu chuyện về đồng bằng sông Cửu Long: Câu chuyện về Hà Tiên thập cảnh, chốn bồng lai văn hiến giữa hoang địa; câu chuyện về những người nông dân “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu; câu chuyện về những tá điền trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh hay những thị dân trong tiểu thuyết Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu; câu chuyện về “đất rừng phương Nam”, “Hương rừng Cà Mau” về “người đàn bà trên kinh Đồng Tháp Mười”, về những người trong bưng biền, trong chiến khu, câu chuyện về những đàn trâu bạt ngàn trên cánh đồng nước lũ, những giáo dân Bửu Sơn Kỳ Hương bị Khmer Đỏ thảm sát hay câu chuyện về những phận người bơ vơ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Những câu chuyện không ngừng được tích tụ nhưng dường như vùng đất này vẫn đang tiếp tục đi tìm câu chuyện của mình và về mình. Chỉ mới đây thôi, chúng ta có câu chuyện của Lý Lan về Bửu Sơn Kỳ Hương, cuốn tiểu thuyết đặt châu thổ trong một chiều kích độc đáo, chiều kích của những đa dạng tộc người: di dân Kinh Việt, di dân Hoa kiều, người bản thổ, tất cả bị cuốn vào những biến động mang tính kiến tạo quốc gia của vùng đất này. Và từ đó, nét tâm thức đặc thù của con người châu thổ với những tôn giáo đặc trưng của vùng đất được soi rọi.

Sóng đồng bằng1 của Vũ Thành Sơn, có lẽ, nên được đọc trong một văn mạch như thế. Cuốn tiểu thuyết ngắn này là một đổi dòng trên hành trình viết của nhà văn. Vẫn là Vũ Thành Sơn ấy bởi trong tất cả mọi hư cấu của ông, lịch sử, với tư cách là những biến động lớn của quốc gia, luôn là một nhân vật. Tuy vậy, thay vì nói về di chứng của những biến cố lịch sử để lại cho những thế hệ kế tiếp thì lần này, ông viết một tiểu thuyết lịch sử đúng nghĩa, về những con người của quá khứ, đứng trước những lựa chọn của thời cuộc và chịu đựng những lựa chọn đó. Vẫn là Vũ Thành Sơn ấy trong khả năng đi đến tận cùng những bi kịch cũng như những chấn thương của con người nhưng lần này, đó là những con người của quá khứ. Và hơn thế nữa, ông kể một câu chuyện của riêng mình về châu thổ, về một vùng đất đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. 

Nhưng có lẽ, trước hết phải nói về chính tính đặc biệt này. Có lẽ đã thành một nếp hằn trong tâm thức nhiều người rằng miền Nam là vùng đất mới trong lịch sử Việt Nam. Nhìn từ một góc độ, điều đó không sai nhưng có lẽ chưa phản ánh hết cái phức tạp của vùng đất này. Nếu lịch sử được viết từ trung tâm quyền lực Đại Việt, quả thật miền Nam là một vùng đất mới khi mới chỉ là một phần lãnh thổ của Đại Việt từ thế kỉ 17, khi di dân Đại Việt bắt đầu khai khẩn những vùng hoang địa của châu thổ cùng người bản thổ và đặc biệt, từ khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào kinh lược xứ Đồng Nai, lập Gia Định Phủ, dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn và vạch nên những nét cơ bản đầu tiên của một hệ thống địa giới và hành chính. Phải qua triều Gia Long, đến tận triều Minh Mạng và Thiệu Trị, khi kinh Vĩnh Tế được đào, khi khu định cư Châu Đốc được kết nối với Hà Tiên và hệ thống kênh đào được nối dài đến Tân Châu, Hồng Ngự, định hình đường biên giới Việt Nam – Campuchia trước khi Nam kỳ lục tỉnh bị người Pháp chiếm, khi đó, vùng hạ lưu Mekong mới hoàn toàn sáp nhập vào lãnh thổ Đại Nam một cách chặt chẽ. Thế nhưng nếu nhìn từ một góc độ khác, thì đây lại là một vùng đất xưa cũ. Từ đầu Công nguyên,  đế quốc Phù Nam đã từng hiện diện trên vùng đất này trước cả khi Đại Việt lập quốc sau giai đoạn Bắc thuộc. Dù vẫn còn là một đế quốc với nhiều khoảng bí ẩn trong lịch sử nhưng những di tích liên quan đến Phù Nam trải khắp các tỉnh Nam bộ cho thấy sự phồn thịnh và phạm vi trải rộng của đế quốc bí ẩn này mà phần phía Bắc lên tới Cát Tiên ngày nay, phía Đông trùm sang phần lãnh thổ ngày nay là Campuchia. Và điều kì diệu là trong những di tích đó, có thể tìm thấy dấu tích của những hoạt động thương mại đất liền và biển sôi động, khi mà đồng tiền vàng của Đế quốc La Mã hiện diện trong không ít di tích liên quan đến Phù Nam. Như vậy, có thể nói, vùng hạ lưu Mekong có lịch sử con người cư trú và hiện diện những nền văn minh lâu đời không kém đồng bằng sông Hồng và ngay từ đầu Công nguyên, hạ lưu sông Mekong đã là một điểm trung chuyển, kết nối những luồng thương mại lớn từ Đông sang Tây, từ châu Âu, Ấn Độ qua Ấn Độ Dương xuyên sang Thái Bình Dương, kết nối với những hải đảo nay là Indonesia và với Trung Quốc. Đến thế kỉ 7, Phù Nam bị Chân Lạp, vốn là một thuộc quốc thôn tính và rơi vào một giai đoạn thoái trào. Sự trỗi dậy của Đế quốc Khmer và Chiêm Thành làm lu mờ vai trò của Phù Nam trước đây và đẩy vùng hạ lưu Mekong vào một tình trạng quay trở về hoang địa với những nhóm cư dân bản thổ sống bám vào những “giồng” đất nhô cao giữa các vùng đầm lầy và đất ngập nước. Điều đặc biệt là những bằng chứng lịch sử còn lại cho đến nay, chủ yếu là di tích khảo cổ, bi kí Khmer và ghi chép trong chính sử của các quốc gia có liên quan đều cho thấy sau khi chiến thắng Phù Nam vào thế kỉ 7, Đế quốc Khmer chưa từng có những nỗ lực nào trong việc chinh phục và quản trị vùng đất ngập nước hạ lưu sông Mekong mà ngày nay là đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Trong nghiên cứu Hà Tiên và sự hình thành nước Việt Nam hiện đại, Vũ Đức Liêm đã trích dẫn rất xác đáng nghiên cứu của các sử gia quốc tế về hạ lưu Mekong:

Các sử gia về Đông Nam Á gọi đây là những vùng đất tự trị cuối cùng ở châu Á trước khi chúng bị sáp nhập thành lãnh thổ của các nhà nước tập quyền (“The Last Stand of Asia Autonomies”: Anthony Reid 1997). Các học giả khác thì gọi vùng đất này “đường biên nước” (water frontier), nơi chứng kiến khoảng trống nhà nước quyền lực cuối cùng ở Đông Nam Á với sự dịch chuyển tự do của dòng di cư, thương mại, và xung đột chính trị (Li Tana – Nola Cooke 2004)”. 


Châu thổ trong tiểu thuyết của Vũ Thành Sơn có nét đặc biệt của vùng đất mới khi con người vẫn còn bỡ ngỡ, thậm chí, e ngại, hoặc đứng bên lề những tiến trình kiến tạo quốc gia, vẫn giữ trong lòng một tinh thần hải hồ với giấc mơ biển lớn.

Và đến thế kỉ 17, hạ lưu sông Mekong bắt đầu bước vào một giai đoạn sôi động mới. Vũ Đức Liêm đã nhận xét rất thuyết phục về giai đoạn từ thế kỉ 17 đến đầu thế kỉ 20 là thời kỳ mà “lịch sử xác lập nhà nước trên vùng hạ lưu Mekong không gì khác hơn là quản lí dòng di cư tự do của di dân và gắn họ vào các không gian chính trị – xã hội – lãnh thổ” và đồng thời là “sự bùng phát của nhiều phong trào tôn giáo và dân tộc chủ nghĩa xuất phát từ vùng đất này như Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài, Hòa Hảo…” (Các dự án nhà nước “thiết kế” vùng hạ lưu Mekong, Tia Sáng, 12.2017). 

Vậy thì cần phải nói rằng hạ lưu sông Mekong là một vùng đất từng có một lịch sử vô cùng xưa cũ (ngược lên đến thế kỷ đầu Công nguyên), luôn là giao điểm của những luồng thương mại và di dân, từng là lãnh thổ của một đế chế có sự phát triển rực rỡ, từng bị bỏ quên trong trạng thái hoang địa trong cả ngàn năm và vừa mới được lôi cuốn vào tiến trình kiến tạo quốc gia (nation-building) trong khoảng ba thế kỉ gần đây. Tính mới của vùng đất này cần phải được hiểu trong mối quan hệ với tiến trình kiến tạo quốc gia mà không nên quên đi tính cổ xưa của vùng đất cũng như vai trò đặc biệt của di dân cũng như sự chung sống của các nhóm di dân trong sự phát triển của vùng lãnh thổ này. 

Sóng đồng bằng của Vũ Thành Sơn đã kể câu chuyện về một vùng đất như thế, đã bắt nhịp được với tinh thần xã hội rất đặc biệt của vùng đất này. Giống như Bửu Sơn Kỳ Hương của Lý Lan, ông nhìn ra được cấu trúc xã hội rất đặc thù của vùng đất với sự chung sống của những nhóm tộc người gốc di dân mà ở đây là người Kinh Việt và người Hoa cũng như những thiết chế xã hội (hội kín của Hoa kiều), những tôn giáo rất riêng của vùng đất này (Phật giáo Hòa Hảo). Giống như Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, Vũ Thành Sơn nhìn lịch sử quốc gia trong giai đoạn khốc liệt nhất, những năm cuối của chế độ thuộc địa Pháp ở Đông Dương và những năm đầu của chiến tranh Pháp – Việt, qua biến động của một làng nông nghiệp, ở đâu đó ven thành phố Long Xuyên, nơi rìa của những vùng đầm lầy lớn của hạ lưu Mekong, Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, một địa điểm nối giữa vùng “văn minh” Sài Gòn và những vùng hoang dã mới được nhập vào cấu trúc chính trị quốc gia. Việc lấy bối cảnh là một làng gần Long Xuyên không chỉ là lựa chọn liên quan đến câu chuyện về Phật giáo Hòa Hảo mà, có lẽ, còn có một ý nghĩa ẩn dụ về đồng bằng sông Cửu Long, về một vùng đất đang thoát khỏi miền hoang địa để kết nối với những tiến trình hiện đại hóa. Và giống như Con ngựa Mãn Châu của Nguyễn Quang Thân, Vũ Thành Sơn nói về những dùng dằng, những chia rẽ của con người châu thổ hạ lưu Mekong trước ngã ba đường lịch sử. Châu thổ trong tiểu thuyết của Vũ Thành Sơn có nét đặc biệt của vùng đất mới khi con người vẫn còn bỡ ngỡ, thậm chí, e ngại, hoặc đứng bên lề những tiến trình kiến tạo quốc gia, vẫn giữ trong lòng một tinh thần hải hồ với giấc mơ biển lớn (biển cũng là một hình ảnh lặp đi lặp lại trong văn chương của ông và lần này, được hóa thân rất đẹp trong tâm tưởng của Tài, một giáo dân Hòa Hảo). Nhưng châu thổ trong Sóng đồng bằng cũng có nét của một vùng đất có đủ tích lũy kết quả của tiến trình chinh phục đầm lầy trong nửa thế kỉ chế độ thuộc địa Pháp với kênh xáng được quy hoạch đủ để tạo nên những khu định cư ổn định và những cấu trúc xã hội tương đối phức tạp bao gồm cả một tầng lớp trung lưu đa dạng gồm chủ xưởng, chủ đất, thương nhân. 

Tranh về đời sống sông nước đồng bằng của Maurice Menardeau.

Một nhân vật trong Sóng đồng bằng có suy tư rất ám ảnh về lịch sử:

“Người làm chứng cho những sự thật vào giờ chót đã không có mặt. Đám đông hỗn độn chẳng bao giờ được lịch sử ghi nhận hiện diện. Có thể ký ức của người đàn ông vô danh sẽ vẫn muôn đời câm nín với công việc làm cỏ thầm lặng nếu Tài không gợi lại một phần câu chuyện đáng sợ đó. Lịch sử ở một đất nước như Việt Nam với một trí nhớ bèo bọt như của Sáu Nở hẳn sẽ mãi chỉ có thể thốt lên những tiếng càm ràm bất lực. (người viết nhấn mạnh)”.

Đây có lẽ là đoạn văn tiêu biểu nhất trên nhiều phương diện cho phong cách viết của Vũ Thành Sơn ở tiểu thuyết lịch sử đầu tiên này của ông. Vẫn một lối viết cô đọng với rất nhiều khoảng trống đã in dấu trong những tiểu thuyết trước đây, Vũ Thành Sơn viết Sóng đồng bằng với một sự tiết độ và làm chủ được sự cân bằng của nhiều yếu tố cấu thành nên tác phẩm: cân bằng giữa truyện kể, với tư cách là sự trôi chảy theo dòng sự kiện, và chất tiểu thuyết với tư cách là những khoảng lặng của suy tư và trữ tình giữa dòng sự kiện; cân bằng giữa câu chuyện của những cá nhân vô danh (Út, Tài, Huệ Mẫn, Doanh Châu… cũng như thế hệ cha chú họ) và câu chuyện về những nhân vật lịch sử, dẫu đã được “cái quan” mà vẫn chưa hề được “luận định” xong xuôi (Huỳnh Phú Sổ) cũng như câu chuyện về những sự kiện lịch sừ và tôn giáo (Phật giáo Hòa Hảo); cân bằng giữa sự khốc liệt của những biến cố và sự trữ tình của đời sống; giữa những đại tự sự và những chi tiết bé nhỏ của đời sống. 

Sóng đồng bằng được kể trong một ý thức về sự khốc liệt của lịch sử và sự tan biến nhanh chóng của những kí ức về lịch sử, cái mà ông gọi là “đống tro tàn hào nhoáng” của lịch sử. Thực tại tàn bạo và phức tạp nhưng những người làm chứng, những kẻ tham gia hoặc bị cuốn vào biến động lại vô danh và nhanh chóng bị nghiền nát, giết chết hoặc làm cho câm lặng. Chính vì vậy nên tiểu thuyết là một cách để tái hiện lại cái thực tại đầy phức tạp đó của quá khứ: một lịch sử với những vector rất đa chiều, từ lựa chọn của những người tá điền đến sự lưỡng lự hay mất phương hướng của những thanh niên trung lưu như Út, Tài, Quang hay cái hoang mang của cộng đồng Hòa Hảo sau cái chết của lãnh tụ Huỳnh Phú Sổ; từ những động lực cao cả dưới những giá trị của tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc đến những mục đích thực dụng đến đáng ngờ của không ít những kẻ tham gia kiến tạo lịch sử. Đó vừa là câu chuyện của châu thổ và cũng vừa là câu chuyện của nước Việt Nam mới, một quốc gia hiện đại trong quá trình khai sinh với những xung đột bên ngoài và những chia rẽ bên trong. Trên tất cả, người viết kiến tạo được một thứ ngôn ngữ riêng cho câu chuyện của mình, thứ ngôn ngữ vừa giàu tính địa phương trong từ vựng nhưng lại rất trang nhã và tinh tế trong cú pháp. Có thể nói, cuốn sách này không chỉ là câu chuyện mà còn là tiếng nói của châu thổ.

Sẽ có rất nhiều cách đọc Sóng đồng bằng: đọc như một tiểu thuyết phong tục, đọc như một tiểu thuyết lịch sử, thậm chí, đọc như một tiểu thuyết chương hồi; đọc như một câu chuyện về đồng bằng sông Cửu Long và Phật giáo Hòa Hảo hoặc đọc như một tiểu thuyết về nước Việt Nam sinh thành; đọc trong văn mạch của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại hoặc đọc trong văn mạch của văn chương miền Nam. Những cách đọc đó sẽ được hình thành trong sự tiếp xúc vô tư của người đọc với tiểu thuyết. Tuy vậy, trên tất cả, tiểu thuyết này chắc chắn sẽ là một mời gọi và một chờ đợi: mời gọi những suy nghĩ tiếp của người đọc về những gì đã được gợi ra từ văn bản và chờ đợi những gì sẽ còn được nhà văn viết tiếp. Với những gì được thể hiện trong tác phẩm, có cơ sở để tin vào những điều đó. □

——

1 Sóng đồng bằng, tiểu thuyết của Vũ Thành Sơn, NXB Trẻ, 2025.

Bài đăng Tia Sáng số 21/2025

Tác giả

(Visited 27 times, 27 visits today)