Chú Trần Duy

Từ ngày mới lớn, tôi đã gọi họa sĩ Trần Duy bằng chú và ông cũng rất tự nhiên gọi tôi là cháu. Chẳng phải vì tôi có quan hệ họ hàng gì với ông, mà chỉ vì ông là bạn vong niên của cha tôi và được cha tôi rất quý mến.

Sau ngày cha tôi qua đời, với mẹ tôi, chị tôi và tôi – là những người ông hay gặp – ông vẫn xử sự bằng tình cảm của những người ruột thịt.

Tôi không có hân hạnh được tiếp xúc với chú nhiều, chỉ khắc sâu trong tâm khảm: chú có đôi mắt sáng và rất tình, nói chuyện sôi nổi mà mực thước, không ồn ào, rõ ra là một trí thức thời Pháp còn sót lại; cùng câu nói của chú trong lần đầu gặp gỡ khoảng năm 1964 – 1965, tức là sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm sáu, bảy năm – hồi đó chú bị kỷ luật khai trừ khỏi Hội Mỹ thuật, bị đình chỉ công tác, nhưng vài năm sau đã trở lại làm việc theo chế độ phụ động tại Công ty Mỹ thuật Hà Nội; còn tôi thì vừa tốt nghiệp phổ thông trung học nhưng không được vào đại học, nên bị trả về với gia đình ở Hà Nội:

– Lớn chút nữa cháu sẽ hiểu chuyện gì đã xảy đến với Thầy cháu. Hãy cố lên, cháu!

Tháng 9 năm 1975 tôi từ mặt trận trở về. Một hôm, vừa vào nhà, mẹ đưa cho tôi một cái hộp các tông, nói:

– Của chú Trần Duy cho con đấy!

Mở hộp ra, tôi thấy bên trong là một đôi giày da đen mới toanh, bóng lộn. Tôi ngỡ ngàng vì chưa bao giờ tôi dám mơ là mình có một thứ của quý đến như vậy, thậm chí nhiều năm sau vẫn không dám xỏ chân.

Tháng 9 năm 1996, Nhà xuất bản Đà Nẵng giúp gia đình tôi tái bản cuốn Chương Dân thi thoại của cha tôi hồi năm 1936 ở Huế, tôi tìm cách hỏi địa chỉ của chú để đến thăm và tặng sách, nhưng thật khó quá, sau này mới biết chú đã nhiều lần thay đổi chỗ ở. Mãi đến ngày 29/10/1996 tôi mới tìm được đến nhà chú ở phố Đông Kim Ngưu, giáp lưng với nghĩa trang Hợp Thiện xưa. Chú cháu gặp nhau đều rất mừng rỡ, chừng ấy năm tháng, chú đã già đi nhiều, nhưng vẫn nhanh nhẹn và vồn vã như xưa. Tôi thưa với chú mọi chuyện mà chú quan tâm, còn chú thì kể nhiều chuyện về cha tôi. Chú cầm cuốn sách nhỏ tôi đề tặng chú, vuốt ve nó và nói:

– Thế là bác đã trở lại với cõi đời này rồi, bác Phan ơi!

Còn chú thì đề tặng tôi tập sách Tranh – ký họa Trên đất Pháp của chú do Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin ấn hành tháng 7 năm 1996. Đó là kết quả của ba tháng chú được chu du trên đất Pháp hồi năm 1994. Trong lời đề tặng, chú viết: Kính biếu gia đình bác Phan. Tôi trân trọng mấy lời ấy lắm, vì như vậy là chú vẫn một lòng hướng sự ngưỡng vọng về cha tôi, dù ông đi xa đã ngót 40 năm. Trong trường hợp này, dù chú rất thương tôi, thì tôi cũng chỉ là một đại diện nhỏ của đại gia đình cụ Phan thôi, thật là chí lý quá!


Họa sĩ Trần Duy còn là tác giả của một số cuốn tiểu luận như “Cảm luận
nghệ thuật”, “Suy nghĩ về nghệ thuật”, “Người xem và tác phẩm”. Ảnh: NT

Đầu năm 2003, tôi chuyển về ở một căn hộ mới tại Bán đảo Linh Đàm, tôi quyết định mời chú đến chơi. Tìm mãi rồi cũng ra nhà chú ở trong một ngõ nhỏ ở phố Đội Cấn, chỉ hôm trước hôm sau là chú ngồi taxi đến ngay. Chú ào vào nhà, hỏi:

– Bác đâu?

Bác tức là mẹ tôi, cụ Nguyễn Thị Huệ, năm đó đã 92 tuổi, nhưng rất khỏe mạnh và tinh tường. Vợ tôi đưa chú vào phòng của bà, không ngờ gặp lại người quen cũ, mẹ tôi kêu lên:

– Trời đất! Anh Trần Duy đấy à!?

Chú ngồi ghé lên giường, nắm lấy hai tay mẹ tôi, thủ thỉ:

– Mấy chục năm rồi bác ơi! Thấy bác mạnh giỏi thế này, cháu mừng quá!

Để hai người hàn huyên một hồi lâu, rồi theo nguyện vọng của chú, vợ tôi hướng dẫn chú sang phòng thờ thắp hương cho Thầy tôi. Chú cứ đứng lặng trước di ảnh Thầy tôi trên bàn thờ, rồi nói:

– Trong ánh mắt nghiêm nghị của ông cụ như vẫn phóng ra một câu hỏi?

Trầm ngâm hồi lâu, rồi chú tự trả lời:

– Hỏi ai? Ai phải trả lời? Cuộc đời này phải trả lời, chứ ai?!

Hôm đó, cuối câu chuyện, tôi tặng chú chút quà vì tự hiểu là mình đang đi làm, có lương, còn chú về nghỉ đã lâu, và với hoàn cảnh của chú thì đồng lương hưu được mấy nỗi. Chú yên lặng nhận, không nói lời cảm ơn, chỉ cười nhè nhẹ.

Đâu vào khoảng cuối năm 2003, một buổi tối, đột nhiên chú gọi điện cho tôi, giọng rất khó chịu, kể cho tôi nghe một câu chuyện vừa xảy đến với chú. Đại ý là có vài người bạn tìm đến nhà chú, một hai đòi “xin” một bức tranh khổ lớn của chú, chú không muốn, nhưng thật sự không biết xử trí thế nào cho phải. Tôi còn nhớ câu cuối cùng chú nói với tôi trong cuộc đàm thoại đó:

– Bức tranh, bọn Tây trả chú cả ngàn đô la, chú không bán, thế mà bây giờ… Mà nào chúng nó có phải là hạng người đáng để mình tặng!? Thật là, mấy anh bạn này khó chơi quá!

Tôi ậm ừ, rồi đặt máy vì không biết thưa gì với chú, nhưng trong lòng bị lây cái khó chịu của chú. Chú không nhờ tôi điều gì, nhưng chú gọi cho tôi vì biết tôi đang làm việc tại Bộ Văn hóa, tôi tin là như vậy. Có nghĩa là: chú không nhờ, thì tôi vẫn phải có bổn phận tìm hiểu xem câu chuyện nó là thế nào, giải quyết ra sao cho ổn thỏa. Sáng ra đến cơ quan, tôi thực hiện ngay điều mình nghĩ, nhưng không trao đổi lại với chú. Khoảng ba hôm sau, chú lại gọi điện cho tôi, giọng vui vẻ:

– Cháu ơi, xong rồi nhé! Chúng nó rút lui rồi!

Tôi cười, chúc mừng chú, liều mạng dặn thêm chú: sau này còn có chuyện gì tương tự, chú cứ cháu mà gọi, nhé!

Cuối tháng 9 năm 2007, chú gọi tôi đến nhà. Chú đưa cho tôi bản thảo bài Tưởng niệm Phan Khôi chú vừa viết xong, nói:

– Bài này chú sẽ gửi đọc tại cuộc tọa đàm về bác Phan sắp tới. Cháu cầm về một bản, đọc xem thế nào?

Cầm tập bản thảo đánh máy vi tính trên tay, tôi cảm động quá. Về nhà đọc, thấy rất sâu sắc, nhưng còn khá nhiều lỗi đánh máy, tôi gọi điện xin chú cho mình biên tập lại chút đỉnh, chú đồng ý. Hôm sau tôi cầm bản thảo sạch đến gặp chú, ngồi đọc chậm rãi cho chú nghe, chú rất hài lòng. Sau đó, bài này không đọc tại cuộc tọa đàm, nhưng nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân xin ý kiến chú, rồi đưa lên mạng, rất được hoan nghênh. Ít lâu sau, tôi chuẩn bị tài liệu và cuốn phim tư liệu về cuộc tọa đàm, rồi đem đến nhà gặp chú, nhưng chú đang nằm viện, nên lại tìm đến viện ngồi với chú hồi lâu, lúc trời đã sập tối. Chú nghe tôi kể về cuộc tọa đàm thì vui lắm, lát sau, chú nói:

– Trước sau gì rồi cũng phải cất lời lên mà nói rõ sự thật.

Tôi biết chú nhớ về cha tôi và đang rất đau lòng về cái quá khứ xa xăm hồi 50 năm trước, nhưng lúc này, vì sức khỏe của chú, tôi chỉ muốn chú quên đi. Tôi chủ động chuyển sang đề tài khác.

Vài tuần sau, biết chú đã ra viện, tôi tìm đến nhà thăm và định thưa với chú một chuyện mà tôi cho là rất nên làm. Đúng là chú đã khỏe ra, nói chuyện vui vẻ lắm. Tôi lấy bài Tưởng niệm Phan Khôi của chú, rồi lấy cuộc tọa đàm về cha tôi vừa qua để làm chứng, động viên chú nên viết hồi ký. Chú trầm ngâm thật lâu, mới nói:

– Chú bây giờ chỉ có vẽ thôi, là thích!

Tôi dấn thêm:

– Nếu chú thấy viết khó khăn thì cháu sẽ đem máy ghi âm đến, chú cứ kể, cháu cứ ghi; chỗ nào cần cho rõ hơn, cháu sẽ đặt câu hỏi để giúp chú nhớ lại và kể cho cụ thể. Làm như thế chú không mệt mà lại nhanh. Sau cùng, cháu gỡ băng, đánh máy, chú duyệt lại, sửa sang một chút là xong thôi.

Chú nghe rất chăm chú, nhưng tôi chờ mãi không thấy chú trả lời, tôi có phần e ngại, sợ sự sốt sắng của mình có gì đó làm phật ý chú. Mãi sau chú mới chậm rãi:

– Chú e là… Có nên chăng?

Biết chú còn có điều gì đó phân vân, tôi thôi luôn từ đó, không nhắc lại chuyện đó nữa, nhưng rất lấy làm tiếc. Một cuộc đời vẻ vang như chú thì có biết bao bài học cho những người đi sau.

Đến đầu năm ngoái, tôi kính tặng chú tác phẩm Nắng được thì cứ nắng – Phan Khôi từ Sông Hương đến Nhân Văn do Nhà xuất bản Tri thức ấn hành, gửi qua người con cả của chú là kiến trúc sư Trần Quang Trung. Lúc đó mới biết chú đã lại chuyển chỗ ở về Nhân Chính. Tôi chưa kịp đến thăm chú, thì tháng 11 năm ngoái, một hôm anh Trung gọi cho tôi, giọng vui vẻ:

– Cha em đồng ý để em đón về 62 phố Khâm Thiên rồi.

62 Khâm Thiên là ngôi nhà lâu đời của vợ chồng chú, bị bom B52 phá hủy hồi cuối năm 1972, đã được xây lại. Tôi cũng vui lây, vội hứa sẽ đến thăm chú ngay. Chiều thứ sáu ngày 14/11/2013, tôi đến 62 Khâm Thiên. Anh Trung đón tôi lên nhà, rồi vào phòng riêng của chú đưa chú ra phòng khách. Chú mặc bộ đồ ở nhà, gương mặt tươi tắn, khỏe khoắn, nhưng chậm chạp, khoan thai. Tôi hỏi ý kiến chú về cuốn sách tôi tặng chú hồi đầu năm, chú chỉ cười cười ra ý khích lệ, chứ không nói gì. Tôi nhắc chú: trong sách có nhiều đoạn nói về chú đấy, chú cũng chỉ im lặng, cười cười. Tôi lại tặng chú chút quà, đưa vào túi áo của chú, chú đưa tay lên nắm lấy tay tôi thật chặt, nhưng không nói lời cảm ơn, chỉ cười cười. Những nụ cười cuối cùng của chú sao mà lặng lẽ, sao mà hiền lành đến thế! Sau khi từ giã chú, tôi sang phòng bên chào cô Lê Bạch Tuyết, vợ chú. Cô đang ngồi cặm cụi ở bàn, gõ rào rào trên cái máy đánh chữ cổ hiệu Optima. Cô đứng dậy, bước ra, nắm lấy tay tôi, cười rất tươi, đáp lại câu hỏi của tôi:

– Ờ, cô đang cố viết lại những năm tháng ngày xưa của chú đấy!

Rồi mới đây, anh Trung con chú gọi điện cho tôi, nói chú đã qua đời hồi 22 giờ 30 đêm 14/3/2014! Tôi chạy đến thắp nơi bàn thờ chú nén hương, cúi đầu im lặng. Rồi trước lời ủy thác của gia đình chú, tôi nhận lời làm mấy việc cuối cùng để tiễn chú về thế giới của người hiền.

Tôi có phân vân trước sự ủy thác của gia đình chú, nhưng rồi tôi vẫn nhận lời làm, vì từ lâu rồi, tôi được chú coi là thằng cháu của chú!

        Linh Đàm, 20/3/2014

Tác giả

(Visited 6 times, 1 visits today)