Chùa Diên Hựu – Một Cột: Lịch sử và biểu tượng

Được biết di tích lịch sử văn hóa chùa Diên Hựu - Một Cột sắp được tu bổ, tôn tạo, thế nhưng trước nay những tư liệu cổ về ngôi chùa hầu như chưa được khai thác toàn diện, dẫn đến nhiều kiến giải khiên cưỡng về biểu tượng này.

Vốn là người yêu quý lịch sử Thăng Long – Hà Nội, tôi xin đưa ra một số ý kiến về nguồn gốc, phong cách kiến trúc cũng như ý nghĩa văn hóa của chùa Diên Hựu – Một Cột với hy vọng sẽ được những người có trách nhiệm trong việc trùng tu lưu ý, hầu mong tránh được những sai lầm đáng tiếc.

Theo dấu thư tịch cổ

Tư liệu đầu tiên và cổ nhất hiện biết về chùa Diên Hựu là văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (năm 1121) đời vua Lý Nhân tông. Văn bia mô tả rất kỹ kiến trúc chùa trong lần trùng tu lớn trước đó 16 năm như sau: “Mở rộng chùa Diên Hựu ở viên lâm phía tây cấm thành, noi theo quy chế cũ trước đây, nhưng thực hiện những mưu tính mới theo ý vua, đó là đào ao sen Linh Chiểu, giữa ao vọt lên một cột đá. Trên đỉnh cột đặt hoa sen ngàn cánh, trên hoa đặt vững một tòa điện tía. Trong điện đặt tượng Quan Âm dát vàng. Bên ngoài ao có hành lang vẽ vây quanh, bên ngoài vòng hành lang là ngòi nước biếc, mỗi mặt đều bắc cầu vồng đi thông vào. Nơi cây cầu ở sân phía trước, hai bên đầu cầu có hai ngọn bảo tháp lợp ngói lưu ly”. (Thác bản hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu 32724 – 32725)

Tư liệu thứ hai là bài thơ viết về chùa Diên Hựu của Thiền sư Huyền Quang (1254 -1343), trong bài có hai câu tả thực:

Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn

(Hình xi vẫn ngủ ngược trên gương nước lạnh
Đôi bóng tháp thon vút như ngón tay ngọc giá băng)

Tư liệu thứ ba là Đại Việt sử ký toàn thư (từ đây gọi tắt là Toàn thư) nói về thời điểm làm chùa và giải thích tên chữ Hán của chùa: “Năm Kỷ Sửu, niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ năm thứ 6 (1049). Mùa đông tháng 10, dựng chùa Diên Hựu (mãi mãi tốt lành). Trước đây vua (Lý Thái Tông) nằm mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên đài sen dẫn vua lên đài. Đến khi tỉnh dậy nói lại với quần thần, có kẻ cho là điềm bất tường. Có vị thiền sư là bậc mẫn tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá giữa mặt đất, làm đài sen và tượng Quan Âm ở đỉnh cột như đã thấy trong mộng, cho các sư đi vòng quanh tụng kinh cầu cho vua được trường thọ. Cho nên đặt tên như vậy”.

Toàn thư cũng ghi nhận các lần trùng tu chùa Diên Hựu vào các năm 1101, 1106, 1249.
Một tư liệu nữa do Phạm Đình Hổ cung cấp qua Vũ Trung tùy bút (bản R.1609 Thư viện Quốc gia). Ông cho biết: “Chùa Diên Hựu ở thời Lý tục gọi là chùa Một Cột, nằm ở bên ngoài cửa Bạch Hổ của hoàng thành, về phía Đông Nam trường Thái Hòa.”

Trạng nguyên nhà Mạc là Trần Tất Văn trong bài ký ứng chế Diên Hựu tự ký có tả đại lược như sau: “Một cây cột đá sừng sững giữa ao sen, trên dựng chênh vênh một ngôi lầu, bốn mặt có hành lang vòng quanh.” Xem những lời đó có thế biết quy chế to lớn diễm lệ của nó. Từ trung hưng đến nay, ao sen hoang tàn, hành lang đổ nát, chỉ còn cây cột, trên đỉnh cột có tòa lầu nhỏ, trong thờ tượng Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, phía trước có bắc cây cầu vồng lợp mái cong. Ngôi tiền điện phía nam ao lợp bằng tranh tre. Năm Ất Sửu niên hiệu Gia Long (1805), đắp thành Thăng Long, cây cầu vồng bị triệt bỏ, cảnh chùa càng thêm hoang phế. Dân cư tương truyền, bùn đất trong ao lẫn vô số kể kim sắt…, người ta cho là nơi Cao Biền trấn yểm.

Ngoài ra, tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ một văn bản chép nguyên văn một văn bia mang tên Nhất trụ tự bi, mang số hiệu 20917, có niên đại Cảnh Trị năm thứ 3 (1665), do Hòa thượng Tỳ khưu Lê Tất Đạt ghi. Nội dung như sau: “Nước Việt ta trước đây trong phủ Long Biên có một cái hồ vuông. Niên hiệu Hàm Thông (nguyên bản chép là Phong) nguyên niên nhà Đường (860) dựng một cột đá giữa hồ, làm lầu ngọc ở trên cột, đặt tượng Phật Quan Âm để phụng thờ. Địa khí chung đúc linh thiêng, điều cầu xin bao giờ cũng được. Đến triều Lý dựng đô ở đây, cũng nhân theo đó càng thêm tôn kính, rất là linh dị. Khi vua Lý Thánh Tông chưa có hoàng tử, thường hương khói cầu tự ở đây. Một hôm ngài mộng thấy Phật Quan Âm dắt lên trên lầu, bế một đứa trẻ đặt vào lòng ngài. Tháng đó Hoàng thái hậu liền có mang hoàng tử. Vua bèn làm thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên hữu chùa Một Cột, để mở mang việc thờ phụng, để tỏ rõ sự tôn sùng. Trải bốn triều đại tu sửa đều nhân theo đó, cùng hưởng phúc hà sa”.

Tuy nhiên văn bản này không đủ độ tin cậy nên chúng tôi không sử dụng1. Từ các tư liệu trên chúng tôi xin được đưa ra một số ý kiến về chùa Diên Hựu – Một Cột như sau:

Phải chăng chùa Diên Hựu mô phỏng kiến trúc chùa Một Cột ở Hoa Lư?

Ban sơ, khi xây dựng chùa Diên Hựu, trước chùa, người ta cho dựng một cột đá lớn trên mặt đất với đỉnh cột là tượng Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen. Lối kiến trúc này cho phép liên tưởng đến cấu tạo của các Phật tràng, kinh tràng– một loại kiến trúc Phật giáo, thường được dựng lên để kiến tạo công đức. Loại kiến trúc này bắt đầu thịnh hành vào thời Đường, lan truyền đến Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Thời Đinh – Lê ở nước ta, kinh tràng được tạo dựng khá nhiều, Nam Việt vương Đinh Liễn từng dựng 100 tòa kinh tràng vào năm Quý Dậu (973)

Phật tràng, kinh tràng, đa số là hình bát giác, gồm ba phần đỉnh thân và đế. Trên các mặt của thân chàng thường có khắc kinh phật; chân đế chạm khắc hoa lá, vân mây, sóng nước; đỉnh chạm khắc tượng phật, bồ tát… Hiện đã phát hiện 14 kinh tràng loại nhỏ ở kinh đô Hoa Lư Ninh Bình, ngoài ra còn một kinh tràng lớn cao hơn 3 m, do Đại Hành Hoàng đế Lê Hoàn dựng tại chùa Một Cột ở Hoa Lư, trên các mặt của kinh tràng này khắc bài chú trong Kinh Lăng Nghiêm và một số bài kệ. Chùa Một Cột ở Hoa Lư vốn là ngôi chùa cổ thời Tiền Lê, được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh”, hướng chính Tây, kiến trúc bao gồm cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp…

Sách Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện do Vân Bồng Đỗ Tử Mân soạn vào năm 1862 cho biết, đến bấy giờ (1826), “tại hai xã Trường Yên Thượng và Trường Yên Hạ ở phía tây bắc huyện Gia Viễn vẫn còn thấy rõ cấu trúc nội thành ngoại thành cùng dấu tích và tên gọi của Cáp Môn, Cầu Đông, Cầu Dền, Cầu Mống, Đình Ngang, Trường Tiền, Chùa Tháp, Chùa Một Cột.” Đặc biệt sách cho biết, “còn một cái cột đá vừa cao vừa to, khắc kinh phật, rêu phủ không thể đọc hết, có lẽ là di tích của chùa Một Cột”. Vậy phải chăng, khi kinh đô được dời ra La thành, ban đầu nhà Lý đã mô phỏng kiến trúc kinh đô Hoa Lư? Và mẫu chùa Diên Hựu ban đầu, với kinh tràng đặt trước chùa – chính là được mô phỏng theo chùa Một Cột ở kinh đô Hoa Lư?

Chùa Một Cột ngày nay chỉ là một phần trong quần thể kiến trúc chùa Diên Hựu

Chùa Diên Hựu – Một Cột là một kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong viên lâm phía tây Hoàng thành, thuộc khu vực vườn Bách Thảo và Bảo tàng Hồ Chí Minh hiện nay. Dựa vào cảnh quan tự nhiên nơi đây, người ta đào hồ đắp núi, trồng cây cối hoa lá, thả chim muông làm thành một khu vườn lớn riêng cho vua quan hoàng tộc nhà Lý. Dấu tích núi Sưa, các hồ nước ở khu vực Bách thảo, sông Ngọc Hà… ngày nay rất có thể là dấu vết còn lại của viên lâm Hoàng thành. Được biết viên lâm tồn tại qua thời Lê sơ, bởi vua Lê thánh tông từng có câu thơ tả khu vườn cảnh này sau mưa: Viên lâm vũ quá lục thành ác [Viên lâm sau mưa, lá xanh thành bức rèm]. Đến thời Lê – Trịnh, vua Lê thất thế, khu viên lâm không người coi sóc, bị bỏ hoang phế, dân cư lấn chiếm dần. Thời kỳ này chúa Trịnh cho kiến trúc khu viên lâm khác rất nổi tiếng gọi là Kỳ viên, gắn liền với kiến trúc phủ chúa, từng được Phạm Đình Hổ nhắc đến trong Vũ trung tùy bút.

Như trên đã nói thì chùa Một Cột ngày nay chỉ là một phần trong quần thể kiến trúc chùa Diên Hựu, đó nguyên là một Phật tràng được kiến tạo phía trước chùa, với cấu tạo là một cột đá bát giác dựng trên mặt đất (sân trước chùa), đỉnh cột là đài sen và tượng Quan âm (chưa có điện thờ).

Năm 1106, chùa Diên Hựu được vua Lý Nhân tông cho trùng tu mở rộng, trở thành quần thể kiến trúc lớn. Riêng Phật tràng trước sân chùa được thêm vào những nét mới. Phật tràng được đặt giữa một hồ vuông thả sen gọi là hồ Linh Chiểu, trên đỉnh cột là tòa sen mạ vàng. Giữa tòa sen là ngôi điện sơn màu tía, sườn nóc điện có gắn hình tượng xi vẫn để trang trí và tỵ tà. Trong điện đặt tượng Phật mạ vàng. Vây quanh hồ sen là hành lang sơn vẽ, vòng ngoài hành lang là hào nước xanh biếc, mỗi mặt đều bắc cầu vồng để đi vào, ở sân phía trước, hai bên đầu cầu dựng hai ngọn tháp lợp ngói lưu ly.

Đến đầu thời Trần, chùa được trùng tu vào năm 1249, vẫn giữ nguyên kiến trúc của lần trùng tu năm 1106.

Đến thời Mạc, có lẽ tòa sen trên Phật tràng đã hư hỏng nên không thấy tư liệu nhắc đến tòa sen nữa, chỉ còn “Một cây cột đá sừng sững giữa ao sen, trên dựng chênh vênh một ngôi lầu, bốn mặt có hành lang vòng quanh”.

Sau thời kỳ Trung hưng của nhà Lê, cùng với sự suy tàn của viên lâm, chùa Diên Hựu hư hỏng dần. Theo ghi chép của Phạm Đình Hổ thì chùa Diên Hựu lợp bằng tranh tre, chùa Một Cột thì ao sen hoang tàn, hành lang đổ nát, chỉ còn cây cột, trên đỉnh cột có tòa lầu nhỏ, trong thờ tượng Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn và một cây cầu vồng lợp mái cong phía trước.

Đến năm Ất Sửu niên hiệu Gia Long (1805), đắp thành Thăng Long, cây cầu vồng bị triệt bỏ, dấu tích kiến trúc của chùa Một Cột – Phật tràng thời Lý gần như không còn.

Theo sách Lịch sử thủ đô Hà Nội (Trần Huy Liệu chủ biên – Nxb Sử Học. 1960) thì chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 dưới thời Nguyễn, không rõ lần trùng tu này ra sao. Năm 1922 chùa lại được trùng tu. Ngày 11/9/1954, chùa bị đặt mìn phá hủy, chỉ còn cây cột với mấy cái xà gỗ. Sau khi tiếp quản Hà Nội, Chính phủ Việt Nam DCCH cho phục dựng chùa như hiện nay.

Có khả năng chùa Diên Hựu nằm trên huyệt mạch quan trọng của Long thành?

Như trích dẫn từ Toàn thư ở phần đầu bài viết, chùa Diên Hựu được xây vào năm 1049 để giảm nhẹ sự bất tường và tạ ơn đức Phật. Điều này cho phép hiểu rằng sự tồn tại của chùa Diên Hựu mang lại sự may mắn và an lành cho Quốc chủ và Long thành. 

Từ xa xưa, người Thăng Long vẫn truyền tụng, khu vực phía tây hoàng thành Thăng Long từng bị Cao Biển trấn yểm. Mạch núi đất kéo từ núi Nùng (khu vực điện Kính Thiên) đến khu vực công viên Thủ Lệ ngày nay bị cắt đoạn đứt nối chính là dấu tích của sự kiện này.

Phải chăng sau khi định đô ở Thăng Long, khi dò tìm được huyệt mạch bị trấn yểm, nhà Lý đã cho xây chùa và đặt một Phật tràng lớn ở đây để giúp hóa giải và điện an kinh đô? Tên chùa được đặt là Diên Hựu mang ý nghĩa kéo dài mãi mãi sự tốt lành cho kinh đô. Trong lần trùng tu năm 1106, để khai thông huyệt mạch, người ta đã đào ao Linh Chiểu để Phật tràng ở vào vị trí chính giữa ao. Ao được đặt là Linh Chiểu (Ao Thiêng) có lẽ để nói về sự linh thiêng của nơi này (điều này cũng lý giải vì sao bùn đất trong ao có lẫn rất nhiều kim sắt). Đồng thời, cùng với việc mở rộng chùa, vua Nhân tông cũng bắt đầu thực hiện nghi tiết tắm Phật rất long trọng để cầu an cho kinh đô và đất nước vào mồng một hàng tháng tại đây, nghi tiết này sau trở thành lệ thường.

Chùa Một Cột trong thời Lê Sơ, thời Mạc và sau khi nhà Lê trung hưng tuy không còn vị trí như ở thời Lý – Trần, song vẫn được giữ gìn coi trọng, những lời lẽ ca ngợi sự thiêng liêng của chùa của văn thần nhà Lê và nhà Mạc chứng tỏ đây vẫn thực sự là chốn thiêng. Thời Lê mạt, chùa bị bỏ hoang tàn. Không bao lâu nhà Lê mất, Thăng Long mất vị trí là kinh đô.
Năm 1955, sau khi được phục dựng, chùa Một Cột được coi như biểu tượng của Hà Nội trong nhiều thập kỷ. Chỉ từ khi Đổi mới đến nay, ý nghĩa đó mới phai nhạt dần.

***

Qua những gì đã trình bày ở trên, theo chúng tôi, chùa Diên Hựu – Một Cột không chỉ là một di tích lịch sử văn hóa quan trọng của Thăng Long – Hà Nội mà còn là một biểu tượng tâm linh. Do đó, việc trùng tu chùa Diên Hựu – Một Cột là vô cùng cấp thiết, và phải là một cuộc đại trùng tu để đưa chùa Diên Hựu – Một Cột trở lại nguyên diện mạo ban đầu của nó. Tuy nhiên cuộc đại trùng tu này không thể được tiến hành một cách vội vàng như đã làm ở các di tích khác. Do trùng tu sửa chữa tùy tiện, chúng ta đã mất đi hàng loạt ngôi chùa quý giá quanh Hồ Tây như Trấn Quốc, Kim Liên, Tây Hồ, Tảo Sách, Trích Sài, Võng Thị… cùng rất nhiều di tích quý giá khác trên khắp đất nước từng góp phần tạo nên bộ mặt văn hóa tinh thần của người Việt Nam.  Để chùa Diên Hựu – Một Cột trở lại đúng với tầm vóc của nó, hãy thận trọng trong đợt trùng tu này, cần tham khảo ý kiến đóng góp của những nhà chuyên môn thực thụ và sử dụng kinh phí thật thích đáng. Nếu chưa thể làm lớn, chúng ta chỉ nên sửa chữa nhỏ và chờ cho đến khi hội dủ điều kiện, chứ đừng vội vã kẻo di họa cho hậu thế.

1. Ý kiến về văn bản này chúng tôi sẽ trình bày ở một nghiên cứu khác.

Tác giả

(Visited 89 times, 1 visits today)