Claudio Arrau và sự đào thoát khỏi Bach

Nghệ sĩ piano Claudio Arrau từ bỏ Bach để chơi Beethoven, Liszt và Schumann – nhưng cái giá phải trả là gì.


Nghệ sĩ piano Claudio Arrau.

Sau bảy năm đầu đời là thần đồng tại quê hương Chile cùng 22 năm làm nên tên tuổi ở Đức và lưu lại đó cho đến năm 1940, đầu năm 1942, nghệ sĩ piano Claudio Arrau 39 tuổi vừa mới đến Mỹ qua một chuyến lưu diễn ở Nam Mỹ. Trên con đường trở thành một trong những người khổng lồ của piano thế kỉ 20, ông “bị giằng xé giữa hài lòng khi được công nhận và cả những khiếp đảm đang xảy ra ở Đức” (trích cuốn Arrau on Music and Performance của Joseph Horowitz). Còn ở đây, Mỹ quyến rũ Arrau, đằng sau nó còn là sự mời gọi về thành công.

Bản thu âm bị “bỏ quên”

Một giả thuyết được đặt ra: chuyện gì sẽ xảy ra nếu Claudio Arrau thu âm Các biến tấu Goldberg vào năm 1942, tức là 13 năm trước khi bản thu âm năm 1955 của Glenn Gould? Dĩ nhiên chúng ta biết bản thu âm đó đã tạo cho thiên tài lập dị người Canada này danh tiếng nổi như cồn. Chúng ta cũng biết những gì đã xảy ra với Các biến tấu Goldberg và tác phẩm này đã thoát khỏi tình trạng tương đối vô danh để trở thành tiết mục yêu thích trong các buổi độc tấu và chương trình thu âm hiện nay.

“Chuyện gì sẽ xảy ra” không phải là một giả thiết cường điệu, bởi dù Arrau, con người bảnh bao “pha trộn giữa nét hào hoa của Adolphe Menjou và sự lịch lãm của Anthony Eden” (tạp chí Time, 1942), giờ đây được biết đến như một người trình diễn xuất sắc tác phẩm của Beethoven, Liszt, Schumann và có thể cả Chopin cũng như Schubert. Vốn tiết mục của ông trong những năm đầu sự nghiệp và thị hiếu âm nhạc của ông trong suốt cuộc đời rộng mở một cách ấn tượng, Friedrich Gernsheim, Adolf von Henselt, Stephen Heller, Joachim Raff, Felix Weingartner và Hermann Goetz đều là một phần trong những buổi biểu diễn độc tấu của ông, đã làm nên tên tuổi ông khi chơi tất cả các tác phẩm đàn phím của Bach trong một chùm 12 buổi hòa nhạc tại Berlin vào mùa diễn 1935-36. Trước đó, khi ở tuổi 17 ra mắt ở London vào năm 1920 tại Aeolian Hall, Arrau đã biểu diễn Các biến tấu Goldberg và một số sonata của Scarlatti. Martin Krause –  thầy dạy (duy nhất) của Arrau và từng là học trò của Liszt – đã coi Bach như một trong những nền tảng giáo dục của mình, và ông giúp Arrau có thể chơi tất cả các prelude và fugue trong Bình quân luật ở bất kỳ điệu thức nào. “Dĩ nhiên trong những ngày đó chắc chắn là việc chơi Bach trên piano là đúng. Nó là cách duy nhất. Landowska lúc đó vẫn còn chưa xuất hiện.” 1

Hóa ra trước bất kỳ ai khác (ngoại trừ Landowska, người đã thu âm nó cho HMV/EMI vào năm 1933), ông đã thu âm Các biến tấu Goldberg vào năm 1942, cho RCA. Vậy tại sao chúng ta không biết Arrau là nhà tiên phong về Bach, thậm chí có lẽ là một người khởi nguồn, người đẩy xa ranh giới các tác phẩm của nhà soạn nhạc thiên tài?

Vậy điều gì đã xảy ra khiến bản thu âm này đã không được phát hành cho đến năm 1988, gần nửa thế kỉ sau đó. Nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ ra mắt này. Vào năm 1988, Friede Rothe – người quản lý và người bạn suốt đời của ông, đã lý giải sự trớ trêu trong lịch sử âm nhạc này: “Một trong những tác phẩm lớn đầu tiên Claudio Arrau thu âm cho RCA sau thắng lợi tại Carnegie Hall vào tháng 2/1941 đã mang lại cho ông danh tiếng tại Mỹ là Các biến tấu Goldberg của Bach. Nhưng nó đã không được phát hành bởi khi Thế chiến thứ hai đang diễn ra dữ dội, Wanda Landowska đến New York tị nạn. Để tái lập danh tiếng mà bà đã đạt được ở Mỹ vào năm 1924 và để gây các quỹ, bà đã tổ chức một buổi hòa nhạc New York dành cho Các biến tấu Goldberg. Sau đó, bà muốn thu âm [lại] tác phẩm. RCA hỏi Arrau liệu ông có hoãn lại Goldberg của mình để ủng hộ Landowska trên đàn harpsichord hay không. Ông đã dễ dàng đồng ý, không chỉ vì ông ngưỡng mộ Landowska mà còn vì lúc đó ông đang bắt đầu nghĩ rằng các tác phẩm đàn phím của Bach thực sự thuộc về đàn harpsichord. Một vài năm sau, Arrau đã ký một hợp đồng dài hạn tại CBS; đồng thời với thành công của Landowska, RCA không thấy có lý do gì để phát hành bản thu âm của ông, vì vậy nó nằm trong kho lưu trữ cho đến bây giờ.”

Lịch sử âm nhạc đã thay đổi. Không xảy ra chuyện Arrau giải cứu Các biến tấu Goldberg như Pablo Casals giải cứu các tổ khúc cello của Bach, thay vào đó, Arrau trở thành người đầu tiên trình diễn Liszt vào thời mình. Nhưng ông thu âm các tác phẩm của Liszt khá ít, một phần vì được khuyên không nên chơi quá nhiều Liszt – ít nhất là cho tới khi ông đã có đủ uy tín – bởi nhà soạn nhạc người Hung được coi là “chất độc phòng vé” 2. Do đó, ông tập trung vào Beethoven, Schumann và Brahms. Thật đáng tiếc cho Arrau vì những gì về Liszt mà chúng ta có từ đôi tay ông đều là các bản thu âm ấn tượng.

Ghìm mình để nhấn mạnh vào sự biểu cảm

“Sự quý phái” là một từ luôn có trong các bài bình luận về các buổi biểu diễn hay thu âm của Arrau, mặc dù khi còn trẻ, ông như một ngọn lửa, chơi mọi thứ rất nhanh và cố ghìm mình chậm lại để có được sự biểu cảm thay vì chỉ “huyên náo” một cách hời hợt. Nghệ sĩ piano Tzimon Barto nhớ lại những lần tiếp xúc đầu tiên – và tiếp theo – của mình với Arrau: “Tôi đã thấy ông chơi trực tiếp một lần tại Carnegie nhưng tất cả những gì tôi nhớ là một người đàn ông nhỏ bé thanh lịch bước lên sân khấu để chơi Beethoven và chơi như thể trong một ván cờ chiến thuật. Tôi nghĩ ông đã chơi quá chậm, cả trên bản thu âm cũng vậy, nhưng thực ra là tôi đang chơi quá nhanh! Gần đây, tôi đã tìm nghe toàn bộ Tre Sonetti di Petrarca của Liszt – các tác phẩm đẹp nhất của thế kỉ 19 nhưng tôi chưa dám chạm tay vào, bản thu của ông tinh tế nhất trong tất thảy! Ông đã chơi nó với đúng nghĩa bel canto và tạo dựng toàn bộ không gian cần thiết để nó tung tẩy.”


Một album sonata Beethoven Arrau thu âm cho hãng Philips. 

Nghệ sĩ piano Paavali Jumppanen, người vừa phát hành phần cuối chùm sonata Beethoven do mình chơi (Ondine), mô tả lối chơi của Arrau: “Khi nghe Arrau chơi, tôi bị hút vào một sức căng bí ẩn giữa ông và âm nhạc ông chơi. Thật khó giải thích chính xác nhưng cách ông tiếp cận cây đàn đã đặt một lối nhấn lạ thường vào quá trình tạo ra âm thanh thay vì chỉ tạo ra âm nhạc.” Sức căng này phần nào xuất phát từ tính chất tự nhiên khác thường trong kỹ thuật của Arrau, vốn dựa trên lối chơi bằng toàn bộ cơ thể chứ không chỉ là bàn tay hay cổ tay – và cũng từ cách bấm ngón khác thường và không bao giờ né tránh khó khăn, bởi ông được truyền đạt là khó khăn về kỹ thuật lại ẩn chứa giá trị biểu cảm.

Tôi đã trải qua cảm giác giống như mặc khải trong khi đọc cuốn bán tự truyện của Arrau, chủ yếu ghi lại các cuộc đối thoại với Joseph Horowitz. Tôi đã nghe những bản thu âm của Arrau, hết đĩa nọ đến đĩa kia liên tiếp. Tại trang 218 tôi ngước lên và lắng nghe với niềm sung sướng. Ôi chao! Thật là một ví dụ về Arrau, điển hình và trưởng thành nhất! Đó là đĩa thứ tư trong một bộ Decca Ý gồm các màn độc tấu Liszt với một con mèo xám lông xù trên bìa đĩa. Tôi viết nguệch ngoạc “Bénédiction de Dieu dans la solitude” (Phúc lành của Chúa trong sự cô đơn) vào góc cuốn sách để tham khảo trong tương lai. Mười một trang sau đó: nghệ sĩ piano Garrick Ohlsson, người ngưỡng mộ Arrau và từng theo học ông, được hỏi về buổi biểu diễn hay lần trình diễn Arrau yêu thích của mình: “Tôi luôn nghĩ về bản thu âm tác phẩm Bénédiction de Dieu dans la solitude của Liszt do ông thực hiện. Ngày nay bất cứ ai cũng có thể có một âm thanh trong trẻo, không mang tính chất bộ gõ như vậy từ một cây Steinway hòa nhạc lớn hiện đại trong một phòng thu với các micro gần như được lắp bên trong các dây đàn nhưng chỉ có ông mới có thể tạo ra một thứ âm thanh còn chưa đặc biệt [trên cây đàn cũ], không chỉ ở màu sắc mà còn về cả cấu trúc và hình dạng… Tôi nghĩ điều đó thật lớn lao!”

Những bản thu âm Arrau yêu thích của nghệ sỹ piano Paavali Jumppanen cũng là những bản tiêu biểu nhất trong sự nghiệp của ông: ba sonata thời kỳ cuối của Beethoven và sonata Hammerk lavier. Arrau đã bắt đầu sớm với các sonata Beethoven, chơi trọn bộ lần đầu tiên ở Mexico City vào năm 1938; ông chơi trọn bộ một lần khác cho BBC vào năm 1952 và bắt tay thực hiện một chùm tác phẩm đầu tiên nhưng lại bị hủy bỏ cho HMV/EMI từ năm 1947 đến 1960. Khi ông thu âm chúng cho Philips vào giữa những năm 1960 (chỉ là chùm thứ bảy như vậy xuất hiện vào thời gian đó), thế giới đã sẵn sàng cho sự kết hợp giữa việc trung thành với tổng phổ và xúc cảm chậm bùng nổ ở Arrau. Ông đến như một sự pha trộn không thể bắt chước của “tính khách quan mới” và sự điêu luyện của trường phái cũ. Nhà phê bình Klaus Kalchschmid nói: “Những màn biểu diễn Beethoven này vẫn còn bùng cháy trong ký ức tôi, có cảm giác như ai đó đang biểu diễn chúng trực tiếp cho tôi. Cái lối khiêm tốn, tự nhiên, khác biệt, tuyệt vời về kỹ thuật của chúng tồn tại mãi mãi”.

Philips ngày càng trở nên lão luyện trong công nghệ khi tạo cho Arrau âm thanh của các bản thu giống như ông chơi trong buổi hòa nhạc, và đến thời điểm các bản thu âm Schumann và Schubert của ông (bản thu âm cũ vẫn là bản thu âm tham khảo của Kalchschmid), họ đã đánh mất điều này. Chẳng mấy ngạc nhiên khi chính Arrau, một mặt không thích nghe các bản thu âm của chính mình, không biết cách vận hành máy máy quay đĩa hay máy thu âm, nhưng lại đặc biệt thích bản thu âm Davidsbündler tänze của Schumann (“đó là một lần tôi hoàn toàn hài lòng”) và sonata giọng Đô thứ D. 958 của Schubert. Đây là thời hoàng kim trong sự nghiệp của Arrau, với 150 buổi độc tấu và hòa nhạc mỗi năm, các bản thu âm mới nối tiếp tung ra, và Peters đã phát hành ấn bản “Urtext” của những bản sonata Beethoven. Thành công mà ông khao khát đến thế và ông đã đi một chặng đường dài đến thế để đạt được.

Đó là một con đường gập ghềnh dẫn đến mọi thành công. Khoảng khắc tồi tệ đã xảy ra sau cái chết năm 1918 của Martin Krause, người đã trông nom mọi thứ từ những bữa ăn, bữa sáng, các gia sư (Arrau chưa bao giờ đến trường) và các buổi hòa nhạc khiến Arrau mất phương hướng và rơi vào nơi tăm tối, trong đó hàng năm trời ông nghĩ về cái chết mỗi ngày – ngay cả khi ông hai lần liên tiếp giành giải cuộc thi Liszt.

Vào cuối đời, sau khi đi từ việc chơi Bach đến việc không hề chơi Bach, ông lại đổi ý. Ông đã thu âm bốn Partita cho Philips ở La Chaux-de-Fonds, Thụy Sĩ (bản thu âm cuối cùng của ông) và bày tỏ mong muốn thu âm nhiều hơn nữa. Một lần nữa, chuyện đã không xảy ra: ông chuẩn bị cho buổi độc tấu đầu tiên của mình kể từ khi vợ ông qua đời vào tháng 4/1989 nhưng khi đến Mürzzuschlag (Áo), nơi buổi độc tấu của ông nằm trong khuôn khổ lễ khánh thành bảo tàng Brahms mới nâng cấp, ông phải phẫu thuật cấp cứu vì bị tắc ruột rồi qua đời do biến chứng vào ngày 9/6. Rút cục, ông trở thành một người khổng lồ chơi Beethoven nhưng không phải là một kẻ nổi loạn chơi Bach.

Jens F. Laurson
Ngọc Anh dịch

 

Nguồn bài và ảnh: https://www.steinway.com/news/features/how-claudio-arrau-nearly-became-glenn-gould
—-
1. Wanda Aleksandra Landowska, nghệ sỹ piano Ba Lan đóng vai trò quan trọng trong việc hồi sinh cây đàn harpsichord vào đầu thế kỷ 20. Năm 1933, bà trở thành người đầu tiên trên thế giới thu âm Các biến tấu Goldberg trên cây đàn này.
2. Nguyên văn “box-office poison”: chỉ các diễn viên ngôi sao có mức thù lao cao nhưng không hiệu quả về thương mại với các ông bầu biểu diễn.

Tác giả

(Visited 4 times, 1 visits today)