Cù Lao Chàm: Điểm sáng về bảo tồn biển
Điều gì làm nên thành công của Cù Lao Chàm, nơi người dân và nhà nước cùng tham gia bảo tồn nguồn lợi của biển?
“Khoảng năm 2010 – 2015 là có dự án của Đan Mạch về bảo vệ môi trường ven biển và rạn san hô [ở Cù Lao Chàm]. Họ ở đâu về đây bảo vệ cho mình, trong khi mình là dân bản địa mà tự mình không biết bảo vệ. Từ chỗ đó mà anh em mới nghĩ ra tinh thần cùng giúp sức để bảo vệ. Mấy chú nói chung là làm thế đó nhưng không ăn lương gì hết”, ông Nguyễn Công Thành, Tiểu khu đồng quản lý bảo tồn biển thôn Bãi Hương, kể lại với phóng viên Tia Sáng về sự ra đời của tiểu khu tự quản mà ông là Tổ trưởng Tổ tuần tra.
Thôn Bãi Hương là thôn có chiều dài bờ biển lớn nhất trong Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm (Đà Nẵng), với hơn 80% hộ gia đình vẫn đang theo nghề đánh bắt thủy hải sản. Tổ tuần tra thuộc Tiểu khu đồng quản lý bảo tồn biển thôn Bãi Hương chỉ vỏn vẹn chưa tới 10 người lênh đênh quản lý gần 20km2 biển, đi tuần tra, xử phạt và báo cáo với Ban quản lý Khu bảo tồn biển về những trường hợp sử dụng dụng cụ đánh bắt trái phép hoặc đi vào vùng cấm khai thác, một cách hoàn toàn tình nguyện. Đó là một ví dụ nhỏ, minh họa cho mô hình đồng quản lý đầy lãng mạn đã triển khai ở Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm trong hơn 20 năm qua. Một phần lớn nhờ mô hình này, mà hiện nay 50% rạn san hô của nơi đây đang sinh trưởng ở điều kiện tốt, trong khi con số này trung bình trên cả nước chỉ là 1% (số liệu 2015) [1]
Được thành lập vào năm 2005, Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm là một trong 16 khu bảo tồn biển ở Việt Nam hiện nay. Nằm cách ven biển Hội An, Đà Nẵng khoảng 18 km và nằm sát với tam giác san hô của thế giới (vùng biển nhiệt đới bao quanh Indonesia, Malaysia, Papua New Guinea, Timor Leste, quần đảo Solomon, được mệnh danh là Amazon của đại dương) nên khu bảo tồn này được hưởng một hệ sinh thái biển đa dạng bậc nhất ở Việt Nam, với hàng trăm loài san hô – nơi sinh dưỡng của gần 300 loài cá và nhuyễn thể.

Diện tích khu bảo tồn khoảng 235 km2 với tám hòn đảo vốn đã “quá sức” với một Ban quản lý chỉ vài chục người, nhưng việc bảo vệ nguồn tài nguyên trù phú ở đây thậm chí còn vượt rất xa ngoài ranh giới của khu bảo tồn. Các nghiên cứu gần đây cho thấy tôm hùm gai, một loài sinh vật có giá trị kinh tế cao, trưởng thành ở trong khu bảo tồn nhưng lại đẻ trứng và lớn lên ở cửa biển Tam Hải, cách khu bảo tồn hàng chục km. Hay những con cá hồng lớn dù tập trung sinh sống ở ngoài đảo nhưng trứng và con non của chúng lại nằm ở rừng dừa Bảy Mẫu gần ven biển Hội An, khu vực nằm ngoài khu bảo tồn. “Với một nghề rất đặc thù như bảo tồn, trên không gian biển mênh mông như vậy mà không có sự tham gia của người dân thì rất khó”, PGS.TS. Quách Thị Khánh Ngọc, một nhà nghiên cứu về kinh tế thủy sản và bảo tồn đa dạng sinh học ở Trường ĐH Nha Trang nhận định.
Mô hình đồng quản lý – một phương thức mà chính quyền phối hợp với người dân để phân định rõ trách nhiệm trong việc bảo vệ và sử dụng tài nguyên môi trường chung, bởi vậy là một lựa chọn tối ưu, không chỉ cho Cù Lao Chàm mà cho bất kì khu bảo tồn nào. Điều này không phải chỉ để chia sẻ nguồn lực, giảm bớt gánh nặng cho nhà nước, mà xét cho cùng, cũng là vì lợi ích của chính người dân. Bản thân ông Nguyễn Công Thành cũng chia sẻ: “Mình phải giữ, trước hết là giữ cho mình, rồi cho các thế hệ mai sau nữa. Họ đến làm hết rồi thì còn cái gì cho mình làm?”

TS. Chu Mạnh Trinh, người gắn bó với công tác bảo tồn biển tại Cù Lao Chàm từ những ngày đầu tiên, chia sẻ thêm: “Ngày xưa mới làm bảo tồn mình cứ nghĩ bảo tồn chỉ là đi giữ thôi, nhưng không phải. Ai giữ? Cả xã hội giữ, cả cộng đồng giữ, nghĩa là làm thế nào để mình hưởng lợi từ nó nhiều hơn nhưng quyền lợi của các sinh vật vẫn được đảm bảo”.
Đó không chỉ là tuyên ngôn cảm tính mà đã được giới khoa học trên thế giới đồng thuận, đặt ra một “ngưỡng” bảo tồn để con người có thể tiếp tục khai thác và sử dụng tài nguyên trên biển mà không vượt quá khả năng tự phục hồi của đại dương. Tại Hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP28) năm 2023, các nhà lãnh đạo toàn cầu đã thống nhất về mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, ít nhất 30% diện tích đất liền và biển, đặc biệt là những khu vực quan trọng đối với đa dạng sinh học, được quản lý hiệu quả và công bằng thông qua các hệ thống bảo tồn được kết nối tốt, trong đó có khu bảo tồn biển. Mục tiêu này, có thể diễn đạt một cách nôm na, theo TS. Chu Mạnh Trinh là: “Nếu giữ nguyên vẹn được 30% diện tích biển thì ta có thể tha hồ ‘ăn’ mà không hết”.
Lấy nhận thức bù chi phí
Tuy mô hình đồng quản lý có vẻ hiển nhiên và hợp lí như vậy nhưng không dễ thực hiện. “Ở Việt Nam, tôi chỉ thấy rõ nhất đồng quản lý được thực hiện ở Cù Lao Chàm”, PGS.TS. Quách Thị Khánh Ngọc chia sẻ. Một số báo cáo so sánh kết quả quản lý của các khu bảo tồn biển khác nhau ở Việt Nam cũng cho thấy Cù Lao Chàm nổi lên như một điểm sáng với những kết quả khả quan trong việc bảo vệ hệ sinh thái biển phong phú ở đây.
Điểm khúc mắc lớn nhất và đầu tiên trong việc thực hiện đồng quản lý là làm sao để thu hút người dân tham gia. Làm sao để người dân sẵn sàng khai thác “trong chừng mực”? Xa hơn, làm sao để họ sẵn sàng từ bỏ nghề cá? Thậm chí trong trường hợp ở thôn Bãi Hương, người dân còn tự nguyện bỏ thời gian và công sức, không nề hà hiểm nguy để tuần tra trên biển. Những hành động lí tưởng này, dường như đi ngược lại bản chất của con người, vốn làm sao để thu về lợi ích nhiều nhất cho bản thân. Các khu bảo tồn, bởi vậy, luôn đứng trước rủi ro rơi vào cái bẫy của “Bi kịch của tài nguyên chung” (Tragedy of Commons), khi người ta thi nhau khai thác triệt để nguồn tài nguyên chung sao cho tối đa hóa lợi nhuận của mình.
Khi trao đổi với Tia Sáng, hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng để thuyết phục người dân, cần phải cho họ thấy một bức tranh chi phí – lợi ích rõ ràng, khiến họ thấy rằng những gì mà họ thu được sẽ lớn hơn rất nhiều so với chi phí mà họ bỏ ra hiện tại. Đó là một thách thức bởi kết quả của việc bảo tồn nằm ở tương lai xa, trong khi lợi ích từ những mẻ cá bội thu có thể thấy ngay trước mắt. Thông thường, để khích lệ những con người tiến bộ, dám thử những bước đầu tiên, các khu bảo tồn trên thế giới “không phải chỉ hô hào suông mà có khi còn phải tốn các khoản kinh phí nhất định để dẫn dắt họ tham gia”, theo PGS.TS. Quách Thị Khánh Ngọc. Nhưng Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, cũng như tất cả các khu bảo tồn khác ở Việt Nam, đều có ngân sách eo hẹp, chi cho các hoạt động liên quan trực tiếp đến bảo tồn còn không đủ, huống chi là trả lương hay hỗ trợ tài chính cho những người dân tham gia bảo tồn?
Ban quản lý Cù Lao Chàm cho thấy họ có thể “lội ngược dòng” những khó khăn nói trên bằng việc nâng cao nhận thức của người dân và tạo ra một cơ chế đối thoại hai chiều thực chất để những tri thức và kinh nghiệm của người dân thực sự được triển khai trên thực tiễn quản lý. Tất cả được thực hiện với một thái độ kiên trì, bền bỉ và nhất quán trong nhiều năm.
Mọi chuyện bắt đầu từ một số dự án do Bộ Ngoại giao Đan Mạch tài trợ vào thời diểm 2003 – 2006 nhằm “hỗ trợ mạng lưới các Khu bảo tồn biển tại Việt Nam”. Dự án này quy tụ sự tham gia của người làm chính sách, nhà khoa học và người dân trong việc nghiên cứu và thay đổi nhận thức về bảo tồn biển. Vừa cười lớn vừa kể lại, TS. Chu Mạnh Trinh chia sẻ ông “bây giờ nghĩ lại vẫn xấu hổ” về cách tiếp cận ban đầu của mình và Khu bảo tồn biển. “Mình mới ra trường, cứ chống nạnh oang oang ‘bà con biết đa dạng sinh học là thế nào không?’ Có ông nghe ông cười, kêu ‘thế cấm rồi tôi lấy gì tôi ăn’”. Hay anh Nguyễn Văn Vũ, Phó Giám đốc Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, đã nhớ lại cuộc “đối đầu” với người dân khi đề xuất phân vùng bảo vệ nghiêm ngặt và vùng cho phép đánh bắt trên biển: “Phản ứng rất dữ dội. Thậm chí người ta nói mình giành biển của họ, không cho bà con khai thác”.
Đó có lẽ là lần đầu tiên các nhà khoa học và những nhà quản lý, đều mới bước chân vào công tác cộng đồng, hiểu ra rằng họ không phải đi “tuyền truyền”, mà đây là quá trình học hỏi lẫn nhau. TS. Chu Mạnh Trinh chia sẻ: “Đồng quản lý là một tiến trình học tập, trong đó mọi người cùng chia sẻ những kỹ thuật, kỹ năng. Trong cộng đồng có đủ thành phần, mình chỉ cần hiểu vận hành của cộng đồng thì sẽ khai thác được trí tuệ trong đó”. Ông cho rằng nhà khoa học không chỉ “phải có một ngôn ngữ thứ hai để người dân hiểu được đa dạng sinh học, sinh kế, biến đổi khí hậu” mà còn phải khơi dậy được tinh thần bảo tồn vốn nằm sẵn trong cộng đồng những người cả đời gắn với nghề chài lưới, bởi “họ có những bài vè, bài chòi hát về hàng trăm loài cá của họ”.
Mặc dù việc tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo, tổ chức hướng dẫn, tham quan học tập là những hoạt động căn bản để kích hoạt sự tham gia thảo luận của cộng đồng, nhưng tổ chức như thế nào đòi hỏi sự tinh tế và thấu hiểu văn hóa địa phương. Sau sự phản ứng dữ dội ban đầu từ phía người dân, Ban quản lý Khu bảo tồn biển ban ngày thì tập huấn, nhưng ban đêm “cán bộ chuyên môn phải lăn lộn với dân, thậm chí phải ngồi uống rượu, uống cà phê tâm sự thân tình chứ không phải ở các lớp, các diễn đàn không. Phải lăn lộn để nghe câu chuyện của họ và đọc suy nghĩ của họ xem người ta nghĩ về mình thế nào, từ đó mình cũng chia sẻ thì dần dần người ta hiểu”, anh Vũ cho biết.

Sự khác biệt của Cù Lao Chàm so với các khu bảo tồn khác, theo anh Vũ, nằm ở việc họ không chỉ dừng lại ở tập huấn mà còn trực tiếp đưa các đóng góp, suy nghĩ, chia sẻ của người dân vào các công việc nghiên cứu, lập kế hoạch quản lý, theo dõi và giám sát kế hoạch đó. Một trong những ví dụ rõ nét thể hiện điều này đó chính là chương trình bảo tồn cua đá gần đây. Khác với các loài cua biển khác, loài cua này chỉ xuống nước vào thời kì đẻ trứng, còn phần lớn vòng đời sống trong các hốc đá ven biển, các khu rừng trên đảo và có một màu tím rất đặc trưng. Trước đây, người dân thường khai thác rất mạnh để bán như một loại hải sản cao cấp khiến số lượng suy giảm nghiêm trọng. Ban quản lý và nhà bảo tồn tổ chức thảo luận và thống kê được khoảng 40 hộ gia đình đang bắt loại cua này. Nhà khoa học cho rằng nên thử nuôi. Còn người dân với kinh nghiệm của mình chỉ ra rằng loài cua này không thể nuôi được, đồng thời chụp và ghi chép lại tập tính của loài cua đá. Kết quả của quá trình đồng nghiên cứu – đồng quản lý này chính là đề xuất của người dân về việc giữ rừng để bảo vệ cua đá, đồng thời giới hạn đánh bắt (chỉ đánh bắt những con cua có mai dài trên 7 cm và không khai thác vào mùa sinh sản từ tháng ba đến tháng bảy). Đề xuất này cũng kéo theo sự ra đời của tổ tự quản khai thác cua đá để giám sát hoạt động này và dán tem mỗi con cua bán ra thị trường.
Có hàng chục tổ tự quản như vậy ở Cù Lao Chàm, mỗi tổ phụ trách một lĩnh vực hoặc một ngành nghề, một hoạt động trên đảo. Ban quản lý không can thiệp và chỉ định hướng họ thông qua những buổi họp thường kì. Cù Lao Chàm coi “cộng đồng” là một phần của sơ đồ tổ chức quản lý khu bảo tồn – một điều chưa từng có ở những khu bảo tồn khác. Nghiên cứu của TS. Chu Mạnh Trinh cho thấy có 200 hộ gia đình, thuộc bốn/sáu thôn được mời góp ý kiến thường xuyên đối với kế hoạch quản lý khu bảo tồn 5 – 10 năm. Hầu như toàn bộ gần 4.000 người dân trên đảo cùng xây dựng kế hoạch phân vùng và quy chế quản lý, tức là họ đều đồng thuận không khai thác, đánh bắt ở những dải san hô, nơi nguồn lợi thủy hải sản phong phú và dồi dào nhất. [2]“Vừa rồi, người dân phát hiện ra những loài thủy sản không quy định cấm trong luật nhưng hiện trạng ở ngoài đang khai thác quá mức, thì họ đề nghị những con đó phải đưa vào quản lý”, anh Phan Công Sanh, Phó Trưởng phòng Nghiên cứu và Hợp tác quốc tế, Ban quản lý Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, nói.
Dĩ nhiên, bấy nhiêu vẫn chưa đủ để người dân cùng bảo tồn một cách thực chất nếu như họ không nhìn thấy lợi ích kinh tế thật sự từ đó. Sau ít nhất một nửa thập kỉ, người ta mới chứng kiến quả ngọt từ công sức bỏ ra. “Lúc bấy giờ khách du lịch nước ngoài thích lắm vì họ được tới một nơi gần với thiên nhiên. Người dân quan sát họ tới tắm biển, trả tiền ăn; trả tiền xuống biển xem san hô, xem cá; trả tiền ở; trả tiền nằm ở bãi biển sạch thì bắt đầu nhận thức được rằng gìn giữ môi trường, tài nguyên là làm ra tiền. Và chính người Cù Lao Chàm tổng kết điều đó (với tôi)”, TS. Chu Mạnh Trinh kể lại.
Kể cả những ngư dân bị hạn chế khai thác, ban đầu phản ứng “dữ dội” cũng dần cảm thấy ý nghĩa của việc bảo tồn. “Sau 3 – 4 năm bảo tồn rất tốt như vậy, các nguồn cá phong phú trong khu bảo tồn mới có hiện tượng tràn, gọi là spillover effect, làm các con cá bơi ra những khu vực bên ngoài. Lúc này, ngư dân sẽ là người được hưởng lợi”, PGS.TS. Quách Thị Khánh Ngọc cho biết.
Chuyển đổi toàn diện sinh kế
Nhưng thành tựu của mô hình đồng quản lý tại Cù Lao Chàm không chỉ nằm ở việc thay đổi nhận thức của người dân mà quan trọng hơn, nó đã góp phần chuyển đổi sinh kế của họ: gần 80% dân số trên các đảo và các vùng lân cận Cù Lao Chàm đã “thoát li” khỏi nghề chài lưới và chuyển sang làm du lịch. Mặc dù Ban quản lý đã coi đây là một cái đích tất yếu để bảo vệ đa dạng sinh học của khu bảo tồn, nhưng sự thay đổi này giống như đảo ngược một cỗ máy đã vận hành bền bỉ hàng chục, hàng trăm năm: “Từ 2006, khi mình chuyển đổi qua sinh kế khác, hoạt động khai thác trong vùng san hô của người dân giảm thì người ta không thể tin được. Cuộc đời của họ là cha truyền con nối trên biển như thế này rồi, lên bờ làm sao sống được?”, anh Nguyễn Văn Vũ kể lại. Đó còn chưa kể, tiềm năng du lịch ở Cù Lao Chàm – dẫu cảnh đẹp và giàu lịch sử, vẫn là một “lời hứa” xa vời: “Năm 2005 thì một năm chắc cũng được vài chục, vài trăm khách là nhiều. Lúc đó tôi ra đảo thì gần như cả làng biết có một người tới. Cho nên khi định hướng phát triển du lịch là người dân không tin được”, anh nói thêm.
Bảo tồn và phát triển sinh kế, ở một khía cạnh nào đó, giống như một chuỗi bài toán con gà – quả trứng. “Khi giữ biển xanh sạch đẹp và san hô đẹp lên thì bắt đầu khách tới. Người ta nhìn thấy cơ hội và lúc đó mới chấp nhận chuyển sang làm homestay, vận chuyển khách, hướng dẫn viên để đáp ứng từ từ nhu cầu”, anh Vũ giải thích. Nhưng, kĩ năng làm du lịch lại không thể chờ đến khi đông khách mà phải chuẩn bị từ trước. Ban quản lý khu bảo tồn ban đầu đã tận dụng một loạt tài trợ của các chương trình quốc tế để khuyến khích và hướng dẫn người dân trong một khuôn khổ kinh phí hạn hẹp: “Hồi đó khó khăn, thì thôi vận động bà con chỉnh sửa nhà mình có một gian phòng cho khách ở, và khu bảo tồn hỗ trợ mền, chăn, chiếu, gối rồi tập cho bà con làm. Hay những chương trình về nghề truyền thống làm bánh ít hay những nghề nấu nướng có thể phục vụ cho du khách được thì mình tập huấn, cũng như đưa con em trên đảo đi học”, anh Phan Công Sanh nhớ lại.
Hỗ trợ của Ban quản lý chỉ là những bước đầu tiên, còn phát triển các mô hình, dịch vụ du lịch đa dạng gắn liền với văn hóa đặc trưng của địa phương, làm sâu sắc trải nghiệm của du khách thì lại đến từ sáng kiến của chính người dân, điển hình là dịch vụ chèo thúng ở khu rừng dừa Bảy Mẫu (còn gọi là rừng dừa Cẩm Thanh). Nằm bên cạnh ba con sông Hoài, sông Thu Bồn và sông Đế Võng ở Hội An, rừng dừa Bảy Mẫu dù không nằm trong nhưng lại liên kết chặt chẽ với Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm. Ông Trần Rô, Tổ trưởng Tổ hợp tác du lịch cộng đồng và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Gò Hý, đồng thời là Phó Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ thúng chai rừng dừa Cẩm Thanh, chia sẻ với phóng viên Tia Sáng: “Trước đây chú có lượng khách ít thôi, chú dùng một chiếc thuyền ba lá đưa khách đi tham quan rừng dừa. Sau một thời gian, chú suy nghĩ là bây giờ ông cha ta ra khơi đánh bắt con tôm, con cua, con cá, trong rừng dừa mình nghĩ phù hợp nhất chính là cái thúng này”. Ông đã thiết kế và đặt hàng làm những chiếc thúng đầu tiên và kết hợp với sự vận động của Ban quản lý khu bảo tồn, giờ đã mở rộng ra gần 2.000 thúng. Hợp tác xã của ông Rô tổ chức bán vé, đào tạo, tập huấn và cấp chứng chỉ chèo thúng. Mỗi thành viên hợp tác xã có lương “cứng”, thay vì mạnh ai người đó nhận khách. Đó còn chưa kể, cũng chính người dân chế biến món chè dừa, nghĩ ra hoạt động múa thúng, hát dân ca, bài chòi, hát đối đáp để giao lưu với du khách trên chính dòng sông.

Sự thảo luận, học hỏi từ người dân cũng giúp Ban quản lý xây dựng với mô hình du lịch phù hợp cho từng nhóm người, từng năng lực khác nhau. “Thế mạnh của thanh niên là có thể bơi thúng nên họ làm ở doanh nghiệp, nhưng có một lớp lớn tuổi hơn thì tham gia vào du lịch khó khăn hơn, nên chúng tôi có tổ chức một mô hình gọi là du lịch học tập cộng đồng. Vẫn bơi thúng trên dòng sông đó, nhưng người dân sẽ có những câu chuyện về bảo tồn nguồn lợi thủy sản, tri thức bản địa của họ, khu vực này biến đổi về khí hậu như thế nào hay những con cá, con tôm đến mùa nó vô nó ra sinh sản như thế nào”, anh Phan Công Sanh chia sẻ.
Trước đây, Cẩm Thanh – địa phận của rừng dừa Bảy Mẫu – là một xã nghèo, dựa hoàn toàn nghề chài lưới, và theo ông Trần Rô là “biển động là 9 – 10 ngày xách bao đi xin” và “nhà nước hằng năm phải cứu tế 30 – 40 tấn gạo để hỗ trợ trong dịp Tết”, nhưng giờ đây đời sống của họ đã thay đổi một cách ngoạn mục. Ông cho rằng một khi người dân đã quen với ngành du lịch, họ thấy cuộc sống đỡ bấp bênh hơn: “Qua ngành nghề du lịch này là dân chỉ chịu nắng trong một ngày thôi chứ họ cũng không phải đem hết sức lực ra. Họ thong thả đưa du khách đi tham quan, rồi có bầu có bạn tâm sự như hai chú cháu mình đây, đến hết giờ là về thôi. Một thúng thu nhập một tháng được 6 đến 7 triệu, được khách bo thêm nữa thì thu nhập cũng được mười mấy triệu. So với nghề đánh bắt thủy sản thì nghề bơi thúng này là có lãi, thì lúc đó người dân họ làm và duy trì”.
Nỗ lực không hồi kết
Thành công của Cù Lao Chàm đã biến nơi đây trở thành hình mẫu, không chỉ cho các khu bảo tồn biển mà còn rất nhiều vùng du lịch khác. Người dân Cù Lao Chàm đã trở thành “người thầy” và nơi này đã trở thành “trường học” cho nhiều nhà quản lý lẫn người dân trên khắp cả nước. Tuy vậy, dù không đòi hỏi nhiều kinh phí, theo các nhà nghiên cứu, mô hình dường như vẫn không thể nhân rộng. Tại sao lại như vậy?
Không dễ để có được một Ban quản lý khu bảo tồn gồm những người “đặc biệt tâm huyết” như ở Cù Lao Chàm, theo lời của nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bảo tồn. Họ kiên trì và nhẫn nại trao đổi, thảo luận, tìm kiếm sự đồng thuận từ người dân, từ việc phân vùng cấm đánh bắt ở những rặng san hô trù phú cho đến việc chuyển đổi sinh kế từ ngư nghiệp sang du lịch. “Từng nhân viên, chuyên viên, đặc biệt là các anh em đã tham gia ngoài đảo, đã trải qua những giai đoạn rất khó khăn và gắn bó được rồi nên họ rất yêu công việc. Một cán bộ nhảy xuống nước lặn, ở góc độ người khác thấy đó là công việc, nhưng trong tâm thế của người làm bảo tồn biển thì họ rất yêu biển, thậm chí thời gian không xuống biển được là nhớ biển, nhớ mùi nước biển. Nó đi vào trong hơi thở, máu của họ, thiếu là thấy nhớ. Rất nhiều lãnh đạo từ đời trước cho đến giờ gắn bó, tôn chỉ hoạt động của Ban quản lý là gắn với người dân, dân quyết định là chính chứ không phải cán bộ Ban quản lý”, anh Vũ chia sẻ.
Nhưng quan trọng hơn, các nơi khác không có được một cơ chế tự chủ, tự quyết và hầu như mọi sáng kiến của họ đều được sự hỗ trợ của tất cả các bộ ban ngành của tỉnh Quảng Nam (nay là TP. Đà Nẵng) giống như Ban quản lý khu bảo tồn ở Cù Lao Chàm. Một trong những chính sách mấu chốt, thể hiện được tính đồng bộ này chính là việc cho phép khu bảo tồn thu vé tham quan, và giá vé được tăng dần theo thời gian (những năm 2000 chỉ là 10 nghìn đồng và 2010 là 70 nghìn đồng). “Cái vé đó muốn bán là phải qua Hội đồng nhân dân, đại diện dân phải đồng ý. Khi bán được vé thì Cù Lao Chàm có kinh phí để lo việc gìn giữ thiên nhiên bằng cách làm giáo dục, truyền thông, nghiên cứu. Nhiều khu bảo tồn đang phấn đấu làm như vậy nhưng cũng rất vất vả trong tìm sự đồng thuận”, TS. Chu Mạnh Trinh cho biết.
Đồng quản lý là một quá trình không hồi kết đòi hỏi sự linh hoạt, kiên trì và kiên định của không chỉ ban quản lý khu bảo tồn mà còn của cả chính quyền và người dân. Đó là việc không ngừng tìm kiếm điểm cân bằng giữa sinh kế và bảo tồn. Sự chuyển dịch sinh kế từ đánh bắt thủy sản sang du lịch của đa số người dân Cù Lao Chàm là điều tất yếu để bảo tồn, nhưng khai thác du lịch cũng rất dễ phương hại đến môi trường. Thời điểm trước dịch Covid-19, có những ngày số khách du lịch đến Cù Lao Chàm còn vượt quá số dân trên đảo, buộc TP. Hội An phải đặt ra giới hạn số lượng khách ra đảo là 3.000 người/ngày. Lượng du khách lớn cũng làm gia tăng khai thác thủy sản, “thời điểm quá đông thì người ta buộc phải có những hoạt động khai thác lén lút, quá mức”, anh Nguyễn Văn Vũ chỉ ra. Hơn nữa, khách du lịch đến Cù Lao Chàm thường tập trung vào khoảng vài tiếng trong buổi sáng và tham gia các hoạt động lặn ngắm san hô, gây áp lực lớn lên các rạn san hô, chưa kể còn có hiện tượng giẫm đạp hay cano thả neo làm gãy san hô. Ông cũng nhận thấy từ ngày có du lịch, giọng nói, lối sống và văn hóa ứng xử của người dân đảo đã ít nhiều thay đổi, “trước đây tình làng nghĩa xóm thắt chặt, nhưng khi du lịch tới thì xô bồ hơn”.
Không chỉ vậy, quá trình này còn đòi hỏi sự công bằng trong chia sẻ quyền lợi của các nhóm người dân. Miếng bánh du lịch có hạn nhưng rất nhiều người muốn khai thác nên không tránh khỏi mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa chính những người dân địa phương với nhau, theo lời anh Nguyễn Văn Vũ: “ông đón khách nhiều, ông đón khách ít, ông làm nhiều, ông làm ít”. Đó còn là mâu thuẫn giữa người dân Cù Lao Chàm với những người từ địa phương khác tới trên những chiếc tàu đánh cá lớn khai thác “áp đảo” các tàu nhỏ ở gần bờ. Ông Trần Rô cũng không giấu nổi sự lo lắng khi “người dân địa phương khác vô xâm nhập ở đây là hết 30% rồi, bây giờ chưa quản lý chặt chẽ được vì số thúng nhiều”. Những mâu thuẫn này nếu không xử lý khéo “cố gắng đảm bảo công bằng và không ai bị bỏ lại phía sau”, có thể khiến mô hình đồng quản lý tan vỡ.
TS. Chu Mạnh Trinh cho rằng, bảo tồn không chỉ là câu chuyện nghiên cứu về thiên nhiên, mà còn là nghiên cứu về chính con người. Vì vậy, mỗi khu bảo tồn đều cần phải có phòng nghiên cứu cộng đồng, nếu không sẽ không thể giải quyết những vấn đề phát sinh liên tục từ đồng quản lý. “Có những khu có rất nhiều bạn say sưa với sinh thái, đa dạng sinh học, nhưng say sưa với cộng đồng cũng là một lý thú”, ông nói.
[1] https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0308597X17302701
[2] https://vjs.ac.vn/jmst/article/view/374/pdf
Bài đăng Tia Sáng số 23/2025
