Frank Proschan: Khám phá văn hóa tộc người qua những ô cửa sổ

Người Khmu đã đón nhận ông với lời nhắn nhủ: “Chúng tôi muốn anh giúp kể câu chuyện về người Khmu”.

Giáo sư Frank Proschan.

Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội, vừa cho ra mắt độc giả Việt Nam một công trình nghiên cứu dân tộc học đặc sắc của nhà văn hóa dân gian Mỹ Frank Proschan “Tìm hiểu dân tộc Khơ Mú qua văn hóa dân gian và ngôn từ truyền miệng” (Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội).1 Sách gồm 5 chương: 1. Cheuang trong văn hóa dân gian, lịch sử và ký ức của người Khmu; 2. Những người sinh ra từ quả bầu: Các tộc người ra đời từ tưởng tượng ở vùng cao nguyên Đông Nam Á; 3. “Tất cả chúng ta đều là người Khmu”: Tộc danh, bản sắc dân tộc và các tộc người; 4. Cấu trúc song song trong nghệ thuật ngôn từ của người Khmu: Từ văn bản đến diễn xướng; 5. Dòng mồ côi và bài hát mồ côi: Thi pháp và ngữ dụng học trong lời hát theo cấu trúc song song của người Khmu. 

Các chương sách này được tuyển chọn ra trong số nhiều luận văn khoa học của ông về người Khmu đã công bố trên các tạp chí khoa học từ 1992 đến 2022, do các dịch giả Thu Hường và Thanh Hoa chuyển ngữ sang tiếng Việt. Như Frank viết trong Lời giới thiệu, năm chương sách “mang đến năm ô cửa sổ mở ra văn hóa và truyền thống truyền khẩu của người Khmu.” 

Với Việt Nam, Frank Proschan không phải người xa lạ. Là nhà khoa học, và là chuyên gia cao cấp của UNESCO về di sản văn hóa phi vật thể, ông cũng là người bạn chí cốt lâu năm của giới nhân học và văn hóa dân gian Việt Nam. Ông dường như đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu và sống trong thế giới của văn hóa dân gian. Ngay từ khi bước chân vào Đại học Texas ở Austin (1978), các mối bận tâm của ông hầu như đã bị choáng ngợp bởi nghệ thuật múa rối dân gian và từ rất sớm đã công bố một bài viết xuất sắc về múa rối trên tạp chí Văn hóa Dân gian Mỹ (1981).2 Ông nhanh chóng nhận bằng tốt nghiệp đại học (1980) và thạc sỹ (1982) ngành nhân học và dân gian học (folklore) rồi về làm việc tại Chương trình Văn hóa Dân gian thuộc Viện Smithsonian, vốn là Bảo tàng Quốc gia Hoa Kỳ. 

Được thành lập từ 1846, đến nay, Viện Smithsonian đã vươn mình trở thành một “tập đoàn” bảo tàng, trung tâm nghiên cứu và giáo dục của Hoa Kỳ với 157 triệu hiện vật lịch sử, 21 bảo tàng, 21 thư viện, 14 trung tâm nghiên cứu và giáo dục, cùng với một sở thú, và một số công trình kiến trúc và lịch sử, nằm ở thủ đô Washington D.C và vùng phụ cận. 


Cuộc gặp đầu tiên với người Khmu trên đất Mỹ, mà ông coi đó như một định mệnh của cuộc đời, đã dẫn lối đưa đường để ông đi sâu vào thế giới văn hóa của Khmu qua kho tàng thơ ca, huyền thoại và ký ức của họ.

Frank Proschan bắt đầu gắn bó đời mình với người Khmu từ năm 1982. Ông kể: 

“Đầu năm 1982 tôi đến thăm cộng đồng người Khmu ở California. Tại đây có khoảng vài trăm gia đình Khmu từ Mường Sài, vùng Luang Phrabang, Bắc Lào di tản đến các trại tị nạn ở Thái Lan cuối những năm 1970 rồi sau đó định cư ở Mỹ. Lúc này tôi là một nghiên cứu sinh về Nhân học và Văn hóa Dân gian tại Đại học Texas ở Austin. Tôi được người Khmu đón nhận với lời nhắn nhủ: Chúng tôi muốn anh giúp kể câu chuyện về người Khmu”.

Cuộc gặp đầu tiên với người Khmu trên đất Mỹ, mà ông coi đó như một định mệnh của cuộc đời, đã dẫn lối đưa đường để ông đi sâu vào thế giới văn hóa của Khmu qua kho tàng thơ ca, huyền thoại và ký ức của họ. Ông đã dành hàng trăm giờ trong suốt hai năm 1984 và 1985 để phỏng vấn những người Khmu đã gặp. Trong khi chưa thể tiếp cận cội nguồn bản quán quê hương của họ ở Lào, ông đã cùng với hai trợ lý người Khmu của mình rong ruổi khắp nước Mỹ để tìm đến với người Khmu, để tìm hiểu về văn hóa của họ. Luận án tiến sỹ “Nghệ thuật ngôn từ của người Khmu ở Mỹ: Thi pháp trong thơ Khmu [Khmu Verbal Art in America: The Poetics of Khmu Verse] đã dần hoàn thành và được công bố năm 1989, sau khi ông đã có cơ hội đến Lào, Campuchia và Việt Nam hồi cuối năm 1987. Ông bảo chuyến đi đầu tiên do Viện Smithsonian sắp xếp có thời gian hơi ngắn nên ông chỉ muốn đến Lào và Campuchia, nhưng sau đó đã bị thuyết phục khi biết ở Việt Nam có hai nhà dân tộc học mà sau này các nghiên cứu của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc, đó là GS. Đặng Nghiêm Vạn, một chuyên gia về người Khmu của Việt Nam, và GS. Nguyễn Văn Huyên, người đã nghiên cứu về hát giao duyên ở Bắc bộ và mở ra một hướng tiếp cận đời sống thi ca qua từng câu hát trong luận án tiến sỹ bảo vệ năm 1934 tại Đại học Đại học Sorbonne, Paris. Chính những nghiên cứu này đã tạo cho ông nguồn cảm hứng bất tận để vững bước tiến vào kho tàng thi ca và nghệ thuật âm nhạc của người Khmu.

Giáo sư Frank Proschan tới Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên, nhà dân tộc học mà các nghiên cứu của ông từng chịu ảnh hưởng sâu sắc. 

Mặc dù từ khoảng 1990 trở đi, Frank Proschan đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Việt Nam và Lào, nhưng tôi chưa gặp được ông, và tôi chỉ thực sự tiếp cận được với luận án tiến sỹ của ông vào năm 2005. Khi ấy, tôi đang thực hiện một dự án nghiên cứu hợp tác khu vực với Đại học Chiang Mai (Thái Lan) tìm hiểu về các nhóm cư dân nói ngôn ngữ Mon-Khmer ở Đông Nam Á lục địa do Quỹ Rockefeller tài trợ. Bên cạnh các nhóm Paluang và Kuy (Souay) ở Đông Bắc Thái Lan, Champasak (Nam Lào) và Campuchia, tôi đặc biệt quan tâm đến người Khmu. Tôi đã cùng nhóm nghiên cứu, bao gồm TS. Renard và TS. Anchalee của Đại học Chiang Mai, TS. Suksavang Simina, một nhà nghiên cứu người Khmu ở Lào, và hai sinh viên của tôi là Hùng và Hải, thực hiện nhiều chuyến đi xuyên Đông Nam Á lục địa để đến với các bản làng Khmu ở tỉnh Nan (Thái Lan), Luang Prabang và Oudomxay (Lào), Nghệ An và Điện Biên (Việt Nam) và Meng La (Vân Nam, Trung Quốc). 

Giữa những chuyến đi, tôi về Hà Nội xin gặp GS. Đặng Nghiêm Vạn và kể cho ông nghe về những quan tâm của mình về người Khmu. Ông không nói gì nhiều, lục tìm trong giá sách, đưa cho tôi bản luận án tiến sỹ của Frank Proschan rồi bảo: Luận án này người ta tặng tao, mày chụp rồi nhớ trả lại cho tao đấy. Cầm trên tay bản luận án dày 609 trang, tôi bị choáng ngợp khi được tiếp cận với một nghiên cứu chuyên sâu dựa trên những thông tin gốc được thu thập và ghi chép tỷ mỷ bằng tiếng Khmu, phiên âm và dịch ra tiếng Anh, và một bản thư mục tài liệu tham khảo phong phú chưa từng thấy. Tuy vậy, phải đến 10 năm sau tôi mới có cơ hội đến thăm và làm việc tại Viện Smithsonian bên sông Potomac hùng vĩ.

Từ góc nhìn của tôi, việc xuất bản sách của Proschan về người Khmu có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, ít nhất ở hai khía cạnh: (1) Nó bổ khuyết cho nguồn tri thức còn nghèo nàn và nhiều lỗ hổng của giới dân tộc học Việt Nam về người Khmu, đặc biệt là về kho tàng văn hóa phi vật thể vô cùng phong phú và độc đáo của họ; (2) Nó mang lại một tài liệu tham khảo quý giá cho những ai quan tâm đến phương pháp nghiên cứu điền dã dân tộc học, cách tiếp cận và phân tích kho tàng văn hóa truyền miệng của một tộc người ở một tầng sâu thẳm của tri thức và tâm hồn, đó là thơ, là dân ca, huyền thoại, sử thi, và những di sản văn hóa của đời sống thường nhật.

Kể từ những nghiên cứu đầu tiên về người Khmu của Noel Bernard (1904),3 Henri Roux và Tran Van Chu (1927)4, cho đến nay, ở Việt Nam đã có không ít những báo cáo, bài viết và sách về người Khmu5 nhưng những nghiên cứu này xem ra cứ bàng bạc, hời hợt, cái gì cũng đụng vào một tý như kiểu “đá thúng, đụng nia” nhưng không có chiều sâu, không đủ dữ liệu dân tộc học và thiếu phân tích khoa học, do đó chưa mạng lại cho người đọc những tìm tòi phát hiện mới. Đặc biệt, các nghiên cứu dân tộc học ở Việt Nam không tiếp cận được các nguồn tài liệu về người Khmu ở Lào, Trung Quốc và Thái Lan do các học giả nước ngoài công bố, trong đó có những tên tuổi sừng sững như những tượng đài về Khmu Studies như Kristina Lindell (1979, 1984, 1989); Li Daoyong (1984); Suksavang Simina (1996, 1997, 2003) v.v., do đó đã không mang được nghiên cứu của mình tham gia vào các cuộc trao đổi học thuật của giới dân tộc học và rốt cuộc, tự thỏa mãn với thành quả nghèo nàn “một mình một chợ” của mình. 

Nếp sinh hoạt điển hình của người Khơ Mú. Ảnh: Thành Đạt/Báo Nhân dân.

Trong khi tất cả các chương trong cuốn sách đều mang lại nhận thức chân thực và sống động về vốn văn hóa của người Khmu mà chúng ta không thể bàn luận hết chỉ trong một bài viết ngắn này, tôi đánh giá cao đóng góp quan trọng của phần viết về Cheuang như một loại hình sử thi của người Khmu. Sử thi là một loại hình văn học tự sự dân gian. Ở các tộc người chưa có chữ viết, sử thi phản ánh lịch sử và các cuộc chiến tranh chinh phạt của cha ông họ. Từ nguồn tài liệu sử thi, chúng ta không chỉ hiểu được bức tranh xã hội của tộc người ở một thời kỳ nào đó mà cả lối tư duy và sự tưởng tượng đầy tính lãng mạn và huyền thoại hóa về các vị thần, các vị anh hùng dân tộc trong con mắt dân gian, và sâu xa hơn, cách nhìn của họ về vũ trụ và thế giới con người. Ở Việt Nam, giới nghiên cứu văn hóa dân gian đã có những đóng góp nổi bật trong việc sưu tầm và lưu giữ sử thi của các dân tộc như sử thi Tây Nguyên, sử thi của người Thái, người Chăm, v.v… Đó là những thành tựu không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trong khi các nhà nghiên cứu đề cao Cheuang (Chương) như một loại hình sử thi đặc sắc của người Thái, gọi chung là sử thi Chương (ví dụ Chương Han, Khủn Chưởng, Thạo Ba Chương, Thạo Hùng, Thạo Chương, v.v.) thì chúng ta đã gần như quên mất Cheuang cũng là một di sản văn hóa đồ sộ của người Khmu. 


Nghiên cứu của Proschan đã trả lại cho người Khmu vị trí xứng đáng của Chueang trong văn hóa dân gian, ngôn ngữ, lịch sử và ký ức của họ.

Chính nghiên cứu của Proschan đã trả lại cho người Khmu vị trí xứng đáng của Chueang trong văn hóa dân gian, ngôn ngữ, lịch sử và ký ức của họ. Trong ngôn ngữ Khmu, Cheuang là thuật ngữ được dùng để chỉ các đấng bề trên, những lãnh tụ hay thủ lĩnh có uy tín trong cộng đồng, thông minh và dũng cảm, lãnh đạo người dân chiến đấu chống xâm lăng, chinh phạt vùng đất mới. Tóm lại, với người Khmu, Cheuang là một nhân vật văn hóa vĩ đại, một kiểu anh hùng trong thần thoại hoặc trong truyền thuyết. Theo Proschan, Cheung Nhi là một bộ sử thi đặc sắc, với nhiều dị bản, có tính kinh điển của người Khmu, kể về một cậu bé ngay từ nhỏ đã biết làm ra trống đồng từ sáp ong và sau này trở thành thủ lĩnh vĩ đại Cheuang Nhi, dẫn dắt nhân dân tham gia vào các trận đánh như được kể lại trong Cheuang hay Thạo Hùng. Tuy nhiên, người Khmu cũng có một loại Cheuang khác có tên gọi Soek Cheuang hay Soek Khạ. Cheuang vốn là loại sử thi kể về lịch sử chinh phạt của người Khmu, nhưng sau này nó cũng được sử dụng như một lời hiệu triệu kêu gọi người Khmu nổi dậy chống nô dịch và áp bức. Soek Cheuang kể về các cuộc chiến tranh liên miên giữa người Khmu với người Thái, người Lào và người Haw (chỉ phiến quân Thái bình Thiên quốc ở Hoa Nam Trung Quốc, sau khi bị tan rã hồi nửa sau thế kỷ 19) tràn đến vùng núi Bắc Việt Nam và Bắc Lào như Xiêng Khoảng, Mường Lay, Cửa Rào, Nghệ An, v.v. 

Thông qua các câu chuyện kể lại trong Soek Cheuang, Proschan đã đối chiếu với các nguồn sử liệu khác để phục dựng lại gần như đầy đủ các cuộc nổi dậy với thời gian, địa điểm, tên nhà lãnh đạo trên một vùng rộng lớn giữa Meung Thaeng và Luang Prabang, Meung Theng và Meung Meun. Ngày nay người Khmu thường nói “Cheuang sẽ lại đến” kể về các cuộc nổi dậy từ khoảng 1947 đến 1965 ở Lào, Nghệ An và Bắc Thái Lan, như sự mong đợi về một nhân vật vĩ đại sẽ mang đến cho họ sự giàu có thịnh vượng. Với người Khmu, Cheuang là bộ sử thi về chiến tranh và nổi dậy đòi tự do và ấm no, và nó quan trọng đến nỗi Cheuang sẽ không bao giờ biến mất khỏi tâm trí của nhiều người Khmu…


Chính các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân – những người thực hành một biểu đạt văn hóa nào đó mới có thể là những người công nhận nó là một bộ phận cấu thành di sản văn hóa phi vật thể của họ và chỉ họ mới có thể xác định được giá trị của nó.

Frank Proschan có một thời gian dài làm việc cho UNESCO tại Paris, Cộng hòa Pháp với tư cách là một chuyên gia cao cấp. Ông đã sử dụng kiến thức học được từ văn hóa của người Khmu cộng với tư duy kiểu Mỹ, mang đến các cuộc hội thảo quốc tế một tầm nhìn mới về di sản văn hóa phi vật thể. Ông là một trong những người tham gia xây dựng Công ước UNESCO năm 2003 về Bảo tồn Di sản Văn hóa Phi vật thể nhằm giúp các cộng đồng tự suy ngẫm về di sản của mình, tìm cách thể hiện và tái tạo văn hóa của chính mình. Trong các cuộc thuyết trình tại Việt Nam, Proschan kiên trì giải thích với các nhà nghiên cứu, giới truyền thông và người quản lý văn hóa rằng không nên hiểu sai việc ghi danh các di sản văn hóa phi vật thể vào danh sách Công ước 2003 là sự vinh danh hay công nhận của UNESCO. Càng không có chuyện xếp hạng di sản văn hóa theo cấp độ địa phương, trung ương và thế giới. Chính các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân – những người thực hành một biểu đạt văn hóa nào đó – và chỉ họ mà thôi – mới có thể là những người công nhận nó là một bộ phận cấu thành di sản văn hóa phi vật thể của họ và chỉ họ mới có thể xác định được giá trị của nó.

Ở tuổi ngoài 70, Proschan vẫn chưa kết thúc sự nghiệp của mình. Ông muốn đi nhiều, trải nghiệm nhiều, học hỏi nhiều hơn nữa, và mang tri thức tích lũy được trao truyền lại cho thế hệ mai sau để họ tiếp tục duy trì, kết nối cộng đồng với di sản của mình. Với thái độ chân thành và sự điềm tĩnh của một người cả đời đã đắm mình trong thế giới của văn hóa dân gian, ông vẫn đang góp phần cùng thế hệ trẻ tạo nên những hoạt động nghiên cứu sôi nổi và một tinh thần nhân văn cao cả. Ông nhắn nhủ sinh viên nhân học về di sản văn hóa: 

“Hãy tìm tòi những thứ các em yêu thích và đam mê, và đừng có ngại ngần dấn thân. Cứ tò mò đi, và đừng phán đoán trước gì cả. Đừng đóng chặt cánh cửa trước mặt mình mà hãy sẵn sàng nắm bắt cơ hội và thử nghiệm mọi thứ”.

Không hiểu sao nhìn ông nheo nheo đôi mắt hóm hỉnh sau cặp kính trắng đối thoại với sinh viên khi làm giáo sư thỉnh giảng tại Khoa Nhân học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2019, tôi cứ tưởng tượng ra một chàng trai trẻ người Khmu đang tán tỉnh người đẹp bằng một bài hát đối, được Henri Roux ghi lại trong bài viết của mình từ 100 năm trước (tôi mạo muội dịch ra tiếng Việt): 

Eey, người thân yêu ơi

Hòn đá rửa cọ vào nhau kêu “bôôy” bôôy”

Em gái xinh đẹp ơi

Đi quanh quẩn làm gì

Anh mời em ngồi

Em ngồi lên chiếc ghế này, tựa lưng vào anh

Con chim bồ câu đi loanh quanh ngoài mái hiên

Ngọn đuốc cỏ voi, ngọn đuốc cỏ voi dài

Phát ra âm thanh vang vọng ngân xa…

——

Notes:

(1) Tộc danh chính thức được Viện Dân tộc học đề xuất là Khơ Mú trong khi họ tự gọi mình là Khmu, đọc theo kiểu tiếng Việt vùng Nghệ An là Kưm-mụ, có nghĩa là “người”. Ngoài ra ở một số nơi, người ta cũng phát âm hơi khác một chút, là Kammu hay Khamu. Trong quá khứ, các nhóm dân tộc khác như Thái và Kinh gọi người Khmu là Khạ, Khạ-toong-lưa hay Xá, v.v. Tôi không dùng tên gọi Khơ Mú vì dù chỉ là tên gọi được phiên âm nhưng người Khmu cho rằng cách gọi này có tính miệt thị. Trong cuộc nói chuyện của tôi với ông Moong Văn Nghệ, người Khmu Nghệ An, lúc ấy (năm 2005) là Phó ban Dân tộc tỉnh Nghệ An, ông thẳng thắn nói rằng trong tiếng Thái và tiếng Kinh thì ‘Khơ’ có nghĩa như là khờ hay khờ khạo và ‘Mú’ nghĩa là con lợn. Ông đặt câu hỏi: Thế chẳng hóa ra các ông gọi dân tộc chúng tôi là dân tộc ngu như lợn à? 

(2) Proschan, Frank (1981) “Pupet voices and interlocutor: Language in folk pupetry” [Giọng nói của con rối và người đối thoại: Ngôn ngữ trong nghệ thuật múa rối dân gian]. Journal of American Folklore 94(374)” 527-555. 

(3) Bernard, Noel (1904) “Les Kha, peuple incult du laos francaise (notes anthropolometriques et ethnographiques)”. Bulletin de Geographie Historique et Descriptive 11, 283-388. 

(4) Roux, Henri & Tran Van Chu (1927) “Les Tsa Khmu”. Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extreme-Orient, 27: 169-222.

(5) Viện DTH (1999). Dân tộc Khơ Mú ở Việt Nam. Hà Nội: Văn hóa Dân tộc

Bài đăng Tia Sáng số 11/2025

Tác giả

(Visited 61 times, 1 visits today)