Hành trình đến tương lai của 2001: A Space Odyssey
Là một trong những bộ phim khoa học-viễn tưởng quan trọng bậc nhất lịch sử điện ảnh thế giới, cả câu chuyện lẫn kỹ thuật làm phim của 2001: A Space Odyssey đều là hành trình trác việt nhảy vọt đến tương lai .

2001: A Space Odyssey, ra đời năm 1968,là tác phẩm phim khoa học-viễn tưởng do huyền thoại Stanley Kubrick đạo diễn và sản xuất, với phần kịch bản được chính ông cùng nhà văn Arthur C. Clarke chấp bút.
Tác phẩm được lấy cảm hứng từ nhiều truyện ngắn của Arthur C. Clarke, đặc biệt là từ truyện ngắn Sentinel of Eternity (1951). 2001: A Space Odyssey kể về một chuyến du hành không gian trong tương lai gần – năm 2001, được chia làm ba phần nhỏ. “Phần I: Buổi bình minh của nhân loại” lấy bối cảnh thời tiền sử và kể về sự xung đột của hai bộ tộc vượn người dẫn đến bước đầu biết sử dụng công cụ của nhân loại. “Phần II: Sứ mệnh sao Mộc” dõi theo hành trình đến sao Mộc cùng một phi hành đoàn và siêu máy tính HAL 9000. “Phần III: Sao Mộc và xa xôi vô tận” kể về chuyến hành trình du hành vũ trụ kỳ lạ của tiến sĩ David Bowman.
Phản ứng ban đầu của công chúng đối với 2001: A Space Odyssey không mấy tốt đẹp. Tác phẩm có quá ít thoại, cách kể chuyện lê thê khiến khán giả đại chúng thấy nhàm chán. Doanh thu bộ phim đứng trước nguy cơ thua lỗ. Nhưng sau đó vài tháng, các nhà phê bình cũng như công chúng mới nhìn nhận lại nó kĩ càng. Bộ phim được nhận định là kiệt tác của nghệ thuật điện ảnh bởi câu chuyện phi ngôn ngữ siêu việt đậm chất sử thi, mang triết lý sâu sắc của chủ nghĩa hiện sinh. Từng thước phim mang đến trải nghiệm thị giác độc đáo, mô tả chuẩn xác về vũ trụ và du hành không gian. Điều đó là nhờ bộ phim đã áp dụng những kĩ thuật tiên phong, chưa từng có và là nguồn cảm hứng bất tận cho cách làm dòng phim viễn tưởng sau này. Để có được những hiệu ứng đặc biệt và độc đáo cho tác phẩm của mình, Kubrick đã mời Douglas Trumbull – nhà làm phim người Mỹ nổi tiếng với việc tạo ra những hiệu ứng hình ảnh độc đáo, để giám sát hiệu ứng đặc biệt cho bộ phim lần này.
2001: A Space Odyssey đã thiết lập một tiêu chuẩn mới cho dòng phim khoa học-viễn tưởng nói riêng và nền công nghiệp điện ảnh nói chung.
Trong 2001: A Space Odyssey, không hề có bất kỳ hiệu ứng hình ảnh nào được tạo ra bằng đồ họa máy tính. Trong thập niên 60, các hiệu ứng đặc biệt trong phim thường được sử dụng bằng mô hình và kỹ thuật quay phim. Thêm nữa, phim khoa học-viễn tưởng trong thời bấy giờ thường bị xem là phim hạng B với kỹ xảo chưa được đầu tư khủng. Kỹ xảo mà 2001: A Space Odyssey mang đến không những phá tan đi định kiến cho thể loại, mà còn mang đến một bức tranh hiện thực dù là giả định nhưng vẫn phải bám sát thực tế nhất. Nó đã thiết lập một tiêu chuẩn mới cho dòng phim khoa học-viễn tưởng nói riêng và nền công nghiệp điện ảnh nói chung.
Thiết kế sản xuất
Về mặt tham vấn kỹ thuật, Kubrick rất coi trọng nhà văn Arthur C. Clarke, cho rằng Clarke có cơ sở khoa học hơn các nhà văn khoa học-viễn tưởng khác. Vì thế nên khi Clarke đề nghị việc tham khảo ý kiến của các cố vấn chuyên môn về vũ trụ khi làm phim, vị đạo diễn đã ngay lập tức đồng ý. Ông cho thấy sự nghiêm túc hơn 30 chuyên gia kỹ thuật từ các tập đoàn hàng không vũ trụ nổi tiếng như Bell Telephone, Boeing, General Dynamics, General Electric, Grumman, Honeywell, IBM và ngay cả Frederick Ordway và Harry Lange – những người từng có kinh nghiệm hỗ trợ Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA). Nhờ đó mà những hình ảnh ngoài không gian, các mô hình tàu du hành vũ trụ và nội thất của nó, cùng với trang phục của các phi hành gia được sản xuất “chuẩn chỉnh” về mặt kỹ thuật nhiều nhất có thể.
Một ví dụ thể hiện điều đó là cách ông mô tả điều kiện không trọng lực trong con tàu không gian Discovery One một cách đầy chân thực nhờ vào một guồng quay li tâm để các nhân vật lơ lửng trong buồng lái. Đây là sự kế thừa từ bộ phim Royal Wedding (1951), một bộ phim nhạc kịch trong đó có cảnh nổi tiếng khi nhân vật chính thể hiện tình cảm thăng hoa với người mình yêu bằng với điệu nhảy hoàn toàn phi trọng lực, trên cả tường và trần nhà. Tuy vậy, guồng quay trong Space Odyssey 2001 có quy mô lớn hơn và thiết kế phức tạp hơn rất nhiều. Tập đoàn kỹ thuật Vickers Armstrongs Limited đã chế tạo nó với đường kính hơn 10 m, nặng hơn 30 tấn, có thể quay theo cả hai chiều với tốc độ tối đa gần 5 km/h.

Space Odyssey 2001 còn đánh dấu một bước ngoặt trong việc quy trình hóa việc sản xuất phim bằng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Trong giai đoạn đầu, đoàn làm phim đã rất chật vật trong việc nắm bắt và theo đuổi ý tưởng của Kubrick, các cảnh quay phải làm lại hoặc thay đổi liên tục. Cả việc cập nhật lại các bản thiết kế bối cảnh, đạo cụ, trang phục,… và thậm chí là kịch bản cũng khó kiểm soát, đem đến rất nhiều phiền toái. Một số quy trình có thể mất đến 16.000 bước riêng biệt. Đội ngũ làm phim đã tạo ra một căn phòng điều khiển thông minh mà trong đó ứng dụng cách vận hành một dự án kĩ thuật (sơ đồ mạng PERT, lưu đồ, báo cáo tiến độ, hệ thống lưu trữ công nghệ thông tin…) thay vì dùng lịch trình truyền thống. Căn phòng điều khiển thông minh của Kubrick có thể coi như bước đi đầu trong việc thay đổi tư duy quản trị quy trình sản xuất phim trong nền công nghiệp điện ảnh, tiết kiệm thời gian, nhân lực và tiền bạc một cách đáng kể.
Kỹ thuật quay phim
Tưởng chừng vì muốn bám sát với thực tế nhất nên toàn bộ bối cảnh tiền sử ở châu Phi sẽ được quay tại thực địa của châu lục này. Nhưng không, bối cảnh vẫn được tiến hành quay trong phim trường Borehamwood ở nước Anh vì nhiều lý do khác nhau. Chẳng hạn như Kubrick mắc chứng sợ bay trên máy bay, vấn đề chuyên chở một đoàn làm phim lớn đến tận châu Phi, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của thực địa không đảm bảo cho quá trình quay phim diễn ra thuận lợi, khía cạnh tài chính của đội ngũ cũng sẽ phải chịu áp lực rất lớn. Vì thế nên vị đạo diễn quyết định sử dụng ảo ảnh quang học bằng cách kết hợp các mô hình cùng phép chiếu trước (front projection) và thảm phản xạ (retro reflective) để quay “Buổi bình minh của nhân loại”. 2001: A Space Odyssey chính là một trong những bộ phim đầu tiên sử dụng phép chiếu trước này.
Phép chiếu trước sử dụng cách chụp/quay tiền cảnh trước rồi sau đó chiếu chúng từ phía trước lên diễn viên và màn hình phía sau thông qua một bề mặt có cường độ phản chiếu cao được gọi là thảm phản xạ. Tuy không phải là một khái niệm mới khi nó thường được sử dụng trong nhiếp ảnh nhưng không dễ áp dụng trong chiếu phim bởi nó thường gây ra tình trạng đổ bóng lên hậu cảnh và khiến màu sắc của hậu cảnh bị nhạt màu vì ánh sáng của trường quay. Điều này lại càng khó đối với quy mô của bối cảnh mà Kubrick mong muốn.
2001: A Space Odyssey đã có sự mô tả về khoa học tuy viễn tưởng nhưng lại tương đối chính xác. Điều này ngày càng được bảo chứng theo thời gian khi tác phẩm đã “tiên tri” được nhiều sự kiện có thực của giới khoa học-công nghệ hiện đại.
Để làm được điều bất khả này, trước đó, vị đạo diễn đã cử một đội ngũ gồm nhà thiết kế sản xuất Ernest Archer, Andrew Birkin, Keith Hamshere và nhiếp ảnh gia tĩnh vật Pierre Boulat đến sa mạc Namib ở Namibia để châu Phi sao cho trông trẻ hơn lúc bấy giờ hàng triệu năm tuổi để làm tiền cảnh. Tại phim trường Borehamwood, đội ngũ cũng bắt đầu chế tạo đặc biệt thiết bị chiếu trước để phục vụ quá trình sản xuất bộ phim, giải quyết vấn đề về cái bóng và tăng độ phản xạ. Thiết bị này bao gồm một màn hình phản quang lớn1, một nguồn hồ quang được thiết kế với cường độ đặc biệt, một thấu kính ngưng tụ dày 8 inch, nhiều tấm kính hấp thụ nhiệt để ngăn nhiệt độ cao tỏa ra từ tấm chiếu, một giá đỡ tấm kính chiếu và giá đỡ định vị làm bằng thủy tinh và thảm phản xạ là một gương tráng bạc rộng 36 inch, ngoài ra còn có thiết bị chuyên biệt để xoay và thu phóng hình ảnh tiền cảnh mà không bị vướng các đường viền, tấm lọc bụi và thiết bị chống tĩnh điện để ngăn bụi và những dị vật2.
Một kĩ thuật đặc biệt khác trong bộ phim này là rotoscooping để thể hiện mô hình tàu và trạm không gian, hành tinh chuyển động với nền là các ngôi sao có cường độ phát sáng khác nhau sao cho chân thực nhất. Đây là kỹ thuật hoạt hình do Max Fleischer – họa sĩ người Mỹ gốc Ba Lan, phát minh vào năm 1915. Kỹ thuật này, hiểu nôm na là đi nét theo viền của từng người hoặc vật thể trong cảnh quay thực tế, rồi từ nó mới vẽ hoạt họa dựa trên các nét đó. Kĩ thuật rotoscoping nhằm tạo ra các chuyển động chân thực nhất. Khác với kỹ thuật rotoscoping truyền thống, áp dụng trên các cảnh người hoặc động vật chuyển động, trong 2001: A Space Odyssey, kỹ thuật này được áp dụng cho các tấm ảnh ngôi sao, Trái đất, sao Mộc, Mặt trăng và mô hình tàu vũ trụ và trạm không gian hoàn toàn bất động trên phim trường để đảm bảo các vật thể giữ đúng khoảng cách với nhau. Đây được coi là cách làm thông minh, kinh tế trong điều kiện kĩ xảo máy tính chưa ra đời.
Nhắc đến 2001: A Space Odyssey không thể không nhắc đến phân đoạn đắt giá của tác phẩm đối với dòng phim khoa học-viễn tưởng, phân đoạn Stargate trong “Phần III: Sao Mộc và xa xôi vô tận”. Khi này, tiến sĩ David Bowman đang trong cuộc phiêu lưu vào miền vô tận, đi qua hành lang tràn ngập những hình học đa sắc với tốc độ cao được gọi là Stargate.
Quét khe (Slit-scan) chính là kỹ thuật được sử dụng để tạo ra hiệu ứng ngoạn mục đó. Nó có nguồn gốc từ nhiếp ảnh tĩnh đầu thế kỷ XIX. Nhiếp ảnh quét khe có thể hiểu đơn giản là chụp một vật thể qua một khe hẹp dưới điều kiện phơi sáng lâu. Trong quá trình chụp, khe hẹp này sẽ di chuyển từ đầu này đến đầu kia của vật thể đó. Kết quả là, trong bức ảnh, vật thể vừa được kéo dãn, vừa như được tạo thành bởi muôn vàn khe sáng xếp liền thành một dải vô tận. Trong phân đoạn Stargate, Douglas Trumbull điều chỉnh và phát huy kĩ thuật này: Ông sử dụng tấm bảng có khe ở giữa đặt trước tấm kính đủ màu sắc. Tấm bảng có khe được giữ đứng yên, còn tấm kính thì chuyển động qua lại, đồng thời máy quay cũng chuyển động tiến lùi trên đường ray (dolly shot) để quay sự chuyển động trong khe hở vừa phơi sáng ảnh, để rồi được dải hoa văn rực rỡ như trong phân đoạn Stargate.
Di sản
2001: A Space Odyssey đã ảnh hưởng rất nhiều đến các vị đạo diễn của dòng phim khoa học-viễn tưởng sau này. Đạo diễn James Cameron đã từng chia sẻ rằng “Bộ phim khiến khoa học-viễn tưởng trở thành một thể loại hạng nhất”3.
Đạo diễn Ridley Scott đã chia sẻ về những sự ảnh hưởng đến Alien (1979) của ông rằng: “Cảm ơn Star Wars, và cả Stanley Kubrick vì đã ảnh hưởng đến George và chắc chắn là có cả tôi nữa. Thiết kế trong 2001… chính là điểm bắt đầu để mọi thứ trở thành hiện thực. Hãy nhìn 2001 và Star Wars. Thiết kế của Stanley đã ảnh hưởng đến tất cả mọi người.”4. Ridley cho rằng 2001: A Space Odyssey là “tốt nhất trong những thứ tốt nhất” trong việc sử dụng ánh sáng, hiệu ứng đặc biệt và bầu không khí du hành không gian. Ông cho rằng mọi bộ phim khoa học-viễn tưởng kể từ đó đều bắt chước hoặc mang hơi hướng như thế.
Nhờ có sự đầu tư mạnh tay vào việc tham vấn kỹ thuật của các chuyên gia hàng đầu về hàng không vũ trụ, 2001: A Space Odyssey đã có sự mô tả về khoa học tuy viễn tưởng nhưng lại tương đối chính xác. Điều này ngày càng được bảo chứng theo thời gian khi tác phẩm đã “tiên tri” được nhiều sự kiện có thực của giới khoa học-công nghệ hiện đại. Chẳng hạn như một năm sau khi bộ phim được phát hành, sứ mệnh Apollo 11 của Mỹ đến Mặt trăng đã diễn ra và khung cảnh tàu du hành hạ cánh trên bề mặt của Mặt trăng trong phim hoàn toàn giống với khi Apollo 11 đáp xuống vệ tinh này. Sự mô phỏng tàu không gian và trạm vũ trụ, trí tuệ nhân tạo, máy tính bảng, công nghệ nhận dạng bằng giọng nói, gọi video, buồng lái kỹ thuật số,… xuất hiện trong tác phẩm đều là những bước tiến thực thụ về khoa học-công nghệ sau này của nhân loại. Herb A. Lightman gọi 2001 là “cái gì đó như khoa học-thực tế (science-fact)”5chứ không viễn tưởng, hư cấu như thể loại của nó nữa.
Bên cạnh đó, nhờ bộ phim này của Kubrick mà nhiều tác phẩm khoa học-viễn tưởng sau này có sự chú trọng hơn vào mô tả khoa học kỹ thuật một cách bài bản, tập trung tạo ra hiệu ứng hình ảnh dựa trên nền tảng khoa học. Christopher Nolan cũng từng nhiều lần chia sẻ 2001: A Space Odyssey ảnh hưởng đến ông rất nhiều. Có thể thấy Interstellar (2014) thể hiện rõ ràng sự ảnh hưởng đó nhất thông qua kỹ thuật quay phim và thiết kế tàu không gian.
2001: A Space Odyssey là lần đầu tiên guồng quay li tâm được áp dụng trong phim khoa học-viễn tưởng và là lần thứ hai đối với lịch sử của nền điện ảnh (nhưng với quy mô lớn hơn và thiết kế phức tạp hơn trước). Tuy tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ nhưng nhiều nhà làm phim khoa học-viễn tưởng sau này vẫn không ngần ngại mà tiếp tục sử dụng nó cho bộ phim của mình bởi độ chân thực được đảm bảo. Diễn xuất trên một guồng quay li tâm vẫn là lựa chọn ưu tiên của các nhà làm phim khoa học-viễn tưởng sau 2001: A Space Odyssey để tạo hiệu ứng đặc biệt thay vì diễn xuất với phông xanh rồi sử dụng kỹ xảo máy tính. Inception (2010) của Christopher Nolan cũng đã dùng kỹ thuật này cho phân đoạn chiến đấu ở hành lang đầy ấn tượng của bộ phim để thể hiện hiệu ứng không trọng lực.
Đối với tiền thân về mặt ý tưởng của phông xanh – phép chiếu trước, 2001: A Space Odyssey không phải là bộ phim đầu tiên sử dụng kỹ thuật này, và sau đó đại đa số các tác phẩm khoa học-viễn tưởng đã thay thế nó bằng phông xanh và kỹ xảo máy tính. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Kubrick đã nâng tầm phép chiếu trước thông qua việc thực hiện trên quy mô lớn, cải tiến thiết bị để nâng cao chất lượng hình ảnh (không bị vỡ hạt khi phóng to hình ảnh, hình ảnh chiếu chân thật, không lộ bóng đổ của nhân vật). Từ đây, phép chiếu trước trở thành xu hướng để tạo ra các hiệu ứng hình ảnh trong thập niên 70, như Silent Running (1972) hay Superman (1978) hay Oblivion (2013).
Phân đoạn Stargate trong 2001: A Space Odyssey không giống với những gì mà khán giả từng xem trước đây. Được truyền cảm hứng từ Vertigo (1958) và To The Moon and Beyond (1964), kỹ thuật Quét khe trong phân đoạn Stargate được Douglas Trumbull nâng tầm đã tạo nên tính đột phá về phương diện kỹ thuật của bộ phim. Nhiều tác phẩm khoa học-viễn tưởng sau đó vẫn sử dụng kỹ thuật này có thể kể đến như phim truyền hình Doctor Who (1973-1974) và Star Trek: The Next Generation (1987-1994). Paul Franklin – nhà giám sát hiệu ứng hình ảnh của Interstellar, cho biết kỹ thuật Quét khe cũng truyền cảm hứng cho phân đoạn Hành lang Tesseract ngoạn mục trong Interstellar (2014)6. Hiệp hội chuyên viên máy ảnh (The Society of Camera Operators) cũng đã trao giải thành tựu kỹ thuật đặc biệt cho Douglas Trumbull vào năm 2009 cho công trình chụp ảnh chuyển động quét khe này.
Thành tựu “đi trước thời đại” của 2001: A Space Odyssey từ khía cạnh nội dung, phương diện nghệ thuật cho đến yếu tố kỹ thuật càng làm dày hơn di sản to lớn của một trong những vị đạo diễn quan trọng nhất của lịch sử điện ảnh thế giới. Bộ phim đã nhận được 4 đề cử tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 41 gồm Đạo diễn xuất sắc nhất, Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất, Kịch bản gốc xuất sắc nhất, Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất và chiến thắng hạng mục về Hiệu ứng hình ảnh. Sau đó, tác phẩmcũng được trao giải khoa học viễn tưởng từ Hội đồng Điện ảnh Nam California. Trong năm 1969, bộ phim nhận được Tượng vàng David di Donatello của điện ảnh nước Ý và Kỹ xảo điện ảnh đặc biệt tại Liên hoan phim Moscow. Bộ phim nằm trong “Danh sách 100 tác phẩm phim hay nhất mọi thời đại” của Viện phim Mỹ (AFI) và siêu máy tính HAL 9000 của tác phẩm cũng lọt vào “Danh sách 100 anh hùng và kẻ phản diện” của AFI.□
Chú thích
1 Màn hình rộng khoảng 100 feet và có độ trong suốt Ektachrome 8×10 (lớn hơn nhiều so với độ trong suốt của màn hình chiếu lúc bấy giờ là 4×5) có khả năng phản xạ lại gấp 100 lần lượng ánh sáng chiếu và do Công ty 3M phát triển.
2 Bất kỳ dị vật nào xuất hiện trên tấm chiếu và máy chiếu có thể được phóng to lên và làm giảm chất lượng hình ảnh hoặc thậm chí là làm hỏng bối cảnh.
3 Matt Hurwitz. (11/5/2018). ‘2001: A Space Odyssey’ Influenced Generations of Filmmakers Like Nolan, Cameron. Variety. Truy xuất từ https://variety.com/2018/film/news/2001-a-space-odyssey-influenced-generations-of-filmmakers-like-nolan-cameron-1202796566/
4 Mike Fleming Jr. (2015). Ridley Scott On ‘The Martian’ And Why ‘Star Wars’ And ‘2001’ Sent Him To Space With ‘Alien:’ Toronto Q&A. Deadline. Truy xuất từ https://deadline.com/2015/09/ridley-scott-the-martian-star-wars-2001-alien-blade-runner-prometheus-toronto-film-festival-1201522484/
5 Herb A. Lightman. (03/4/2018). Filming 2001: A Space Odyssey. American Cinematographer. Truy xuất từ https://theasc.com/articles/filming-2001-a-space-odyssey
6Bill Desowitz. (10/12/2014). Inside the Making of the Spectacular Tesseract in ‘Interstellar’. IndieWire. Truy xuất từ https://www.indiewire.com/2014/12/inside-the making-of-the-spectacular-tesseract-in-interstellar-189771/
Tài liệu tham khảo
Balaji Thangapandian. (02/8/2020). Cinematography | Zero Gravity | 2001: A Space Odyssey (1968) | Stanley Kubrick. Truy xuất từ https://medium.com/@BalajiThangapandian/cinematography-zero-gravity-2001-a-space-odyssey-1968-stanley-kubrick-ac096d04c6ea
Dangling on a Wire: A Tale from the Making Of ‘2001: A Space Odyssey’. (03/4/2018). Truy xuất từ https://www.space.com/40173-space-odyssey-michael-benson-excerpt.html
Douglas Trumbull. (6/1968). Creating Special Effects for “2001: A Space Odyssey”. American Cinematographer.
Herb A. Lightman. (03/4/2018). Filming 2001: A Space Odyssey. American Cinematographer. Truy xuất từ https://theasc.com/articles/filming-2001-a-space-odyssey
Matt Hurwitz. (11/5/2018). ‘2001: A Space Odyssey’ Influenced Generations of Filmmakers Like Nolan, Cameron. Truy xuất từ https://variety.com/2018/film/news/2001-a-space-odyssey-influenced-generations-of-filmmakers-like-nolan-cameron-1202796566/
Rotoscoping: Everything You Need To Know. (n.d). Truy xuất từ https://www.nfi.edu/rotoscoping/
Bài đăng Tia Sáng số 24/2025
