Hành trình tư tưởng của Tolstoi nhìn từ hôm nay(Kỳ I)
Một trăm năm về trước, khi nhà văn Nga Lev Nikolaevich Tolstoi qua đời trong niềm thương tiếc của nhiều triệu con người trên khắp mọi châu lục, công luận thế giới, đánh giá sự nghiệp của ông, chúng khẩu đồng từ đặt tên tuổi ông lên cạnh không chỉ Homère, Shakespeare, Goethe mà còn Phật Đà, Kitô, Lüther. Một trong những nghệ sĩ ngôn từ lớn nhất của loài người và đồng thời một nhà cải cách tôn giáo đã sáng lập một học thuyết tôn giáo mới cũng dành cho toàn thể loài người, không phân biệt dân tộc, quốc gia, đẳng cấp xã hội như đạo Phật và đạo Kitô.
Những định danh như thế, tưởng chừng xốc nổi và hời hợt, chỉ dựa trên trực giác và liên tưởng và còn xa mới bao quát được hết các mặt phức tạp và các đặc điểm hệ trọng trong cái hiện tượng vô tiền khoáng hậu mang tên Lev Tolstoi, xem ra lại thâu tóm được bản chất, tầm vóc và ý nghĩa của hiện tượng ấy tốt hơn rất nhiều khảo luận, chuyên luận, luận văn về Tolstoi mà ngày nay đã không thể nào thống kê được. Chúng cũng tiên lượng được khá chính xác cái số phận bất an, ba chìm bảy nổi và chưa biết hồi kết mà di sản của Tolstoi, với học thuyết tôn giáo – đạo đức của ông, phải chịu đựng trong thế giới ngày nay.
Một thụ cảm, một nhận thức như vậy về Tolstoi – như là người thầy chung của nhân loại, như là hiện thân của lương tâm không ngơi nghỉ và không thể mua chuộc của loài người – là phổ biến thời ấy, nó đã biến Yasnaya Polyana, điền trang của nhà văn, thành điểm hành hương của hàng trăm khách thập phương và điểm đến của hàng vạn bức thư từ nhiều miền đất gần xa, mà trong đó những người viết cho Tolstoi, đồng tộc lẫn ngoại tộc, hỏi ý kiến của ông, đề nghị ông phát biểu về nhiều vấn đề của đời sống rất nhiều khi không liên quan gì đến văn chương, nghệ thuật. Trong những bức thư như thế, mà Tolstoi đã trả lời, được chọn và đưa vào sách này không chỉ thư của các văn sĩ châu Âu đã hoặc sẽ đoạt giải Nobel – Henryk Sienkiewicz, Bernard Shaw, Romain Rolland, mà còn của một luật sư Ấn Độ chưa được mấy người biết đến, đang sống ở Nam Phi và lãnh đạo cuộc đấu tranh phi bạo lực dành các quyền công dân của một cộng đồng thiểu số người Ấn ở vùng này – người mai sau sẽ trở thành lãnh tụ tinh thần của dân tộc Ấn Độ và được cả thế giới gọi là Mahatma (Thánh) Gandhi – từ trẻ thấm nhuần những tư tưởng tôn giáo – đạo đức của Tolstoi, Gandhi mong mỏi được nghe thấy từ Tolstoi lời cổ vũ cho phương pháp đấu tranh mà ông đã chọn lựa, và ông đã nghe thấy. Cũng thuộc số người đã trao đổi thư từ với Tolstoi có hai nữ sinh Mỹ da màu Lizzie Walker và Martha Tyler ở một thị trấn hẻo lánh của bang Indiana – họ yêu cầu Tolstoi cất tiếng lên án những tội ác của người da trắng hà hiếp người da đen trên quê hương họ, và Tolstoi đã cất tiếng phỉ nhổ những tội ác ấy, đồng thời khuyến dụ những người bị áp bức nên hành xử thế nào với những kẻ áp bức họ…
Nhưng rồi tiếng nói cương trực, vang dội toàn cầu của Tolstoi im bặt vĩnh viễn, song thế sự mà tiếng nói ấy thực ra chưa tác động được đến, vẫn tiếp diễn dường như theo kịch bản đã được duyệt trước. Năm năm sau khi ông qua đời, giữa khói lửa của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, mà ngay Tolstoi, với nhạy cảm đặc biệt của ông với những biểu hiện của chủ nghĩa quân phiệt, của chạy đua võ trang và chuẩn bị chiến tranh, cũng không tiên đoán được, nhà văn Nga D. Merezhkovski, bình luận bộ nhật ký của Tolstoi vừa được in, chua chát viết: “Người mới đây còn là thủ lĩnh tư tưởng của chúng ta, Lev Tolstoi, tuồng như bỗng dưng đánh mất hết quyền lực của mình – tuồng như bỗng dưng toàn bộ trở nên không đúng lúc, không cần thiết, không hiện đại, không hợp thời; chúng ta không biết phải làm gì với ông, cũng như, thực tình mà nói, với tất cả các hiền giả, các bậc thầy, các nhà tiên tri. Hình như chưa bao giờ lại lộ rõ như hiện nay sự bất lực của tinh thần con người trước sức mạnh vô hồn của vật chất: cho dù những con người của tinh thần có nói gì, có nghĩ gì, có cảm thấy và có làm gì – bên ngoài họ sẽ không có gì đổi thay”. Sau thế chiến thứ nhất là thế chiến thứ hai, còn tàn khốc và dã man hơn, với những thảm cảnh và tội ác khủng khiếp hơn rất nhiều so với những gì mà ngòi bút Tolstoi đã khắc họa, và giữa hai cuộc đại chiến ấy trên tổ quốc của Tolstoi đã diễn ra toàn những thứ mà sinh thời Tolstoi đã không mong muốn tí nào, đã không biết mệt mỏi cảnh báo, ngăn ngừa đồng bào mình – cách mạng, nội chiến, rồi một chính thể chuyên chế mới, còn bóp nghẹt tự do của con người hơn chế độ cũ. Dưới chính thể mới ấy người ta đã đối xử với Tolstoi cũng không như ông mong muốn: đề cao đến mức tuyệt đối hóa sáng tác văn học của ông, biến nó gần như thành một thứ khuôn vàng thước ngọc cho mọi người cầm bút trong hiện tại và tương lai nhưng lại hạ thấp cũng hết mức Tolstoi – nhà tư tưởng, xem cái phần ấy trong di sản của ông là vĩnh viễn thuộc về quá khứ và không cần thiết tí nào cho công cuộc xây dựng xã hội mới, con người mới. Những trước tác quan trọng nhất của Tolstoi – nhà tư tưởng trên thực tế trở thành bất cập đối với công chúng độc giả, đồng thời những người noi theo học thuyết của Tolstoi trong xã hội bị ráo riết truy bức. Trong vòng bảy thập niên, nhà tư tưởng Tolstoi được biết đến, được nghiên cứu và quảng bá ở nước ông ít hơn ở bất cứ nước nào của phương Tây, nơi do nhiều lý do cũng thống ngự nhiều định kiến về Tolstoi và trong ý thức xã hội cũng định hình một quan niệm rập khuôn về ông như là một nhà văn kỳ tài và một triết gia yếu kém, nhưng đồng thời trong những giới học thuật vẫn tiếp tục sự nghiên cứu và kiến giải Tolstoi trong chỉnh thể sáng tác và nhân cách của ông. Song dĩ nhiên đã không thể nói về ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Tolstoi ở các nước Âu – Mỹ thế kỷ XX nơi những thần tượng mới: Nietzsche, Freud, Heidegger, Sartre, Derrida… lần lượt chiếm lĩnh tâm trí của công chúng có học, đẩy vào chỗ râm tối thậm chí ra ngoài lề của không gian văn hóa – tư tưởng, nhiều thiên tài của các thế kỷ trước. Đều bước với các nhà tư tưởng hiện đại và hậu hiện đại, không ít các văn nghệ sĩ tiên phong chủ nghĩa ở phương Tây – trái ngược với sự “phong thánh” Tolstoi – nghệ sĩ ở nước Nga Xô viết và các nước đồng minh – từ những năm 60 ra sức chối từ di sản văn chương của Tolstoi, coi nó thuộc về một giai đoạn đã vĩnh viễn bị vượt qua của nghệ thuật ngôn từ…
Trong những thập kỷ đầy khó khăn ấy, uy tín và ảnh hưởng của Tolstoi vừa như một nghệ sĩ vừa như một tư tưởng gia, may thay, được duy trì mà không phải chịu đựng những thăng trầm khiên cưỡng ở phương Đông – khu vực thế giới mà Tolstoi sinh thời quan tâm đến thế và gửi gắm nhiều hy vọng đến thế – ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Sri Lanca và đặc biệt Ấn Độ. Nước Ấn Độ độc lập, ngưỡng kính và tự hào về thánh Gandhi của mình, một cách tự nhiên, ngưỡng kính cả Tolstoi mà Gandhi luôn luôn coi là người thầy tinh thần của ông, nâng niu trân trọng di sản tư tưởng của Tolstoi, tiếp thụ sáng tạo và phát huy tác dụng của nó. Có thể tìm thấy không ít tư tưởng đồng vọng với Tolstoi trong những trước tác của nhà triết học Ấn Độ lỗi lạc (từng làm nguyên thủ của nước này) Radhakrishnan cũng như ở Nhật Bản của nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng Ikeda. Đúng như Romain Rolland đã viết từ những năm 20 thế kỷ trước, chính Tolstoi – nhà tư tưởng đã trở thành một trong những cầu nối đầu tiên chuẩn bị cho cuộc hội nhập tinh thần Đông – Tây mà những bộ óc ưu thời mẫn thế của thế giới này từ lâu mơ ước. Một sự kiện giàu ý nghĩa và hậu quả trong lịch sử đương đại của thế giới phương Tây mang rõ nét ảnh hưởng của tư tưởng phương Đông lại liên quan không tách rời với học thuyết tôn giáo – đạo đức của Tolstoi – đó là phong trào đấu tranh phi bạo lực nhằm xóa bỏ tệ phân biệt chủng tộc của những người da đen ở Mỹ vào những năm 60 thế kỷ trước dưới sự lãnh đạo của Martin Luther King – người đã có ý thức học tập tư tưởng và phương pháp hành động của Gandhi và vô giác hay tự giác đã thực hiện những lời khuyên xưa kia của Tolstoi, bày tỏ trong thư gửi hai nữ sinh da màu ở bang Indiana. Và những công dân Hoa Kỳ có học thời nay, khi bỏ phiếu bầu một người da màu làm nguyên thủ quốc gia của mình, chắc hẳn tưởng nhớ tới cả Tolstoi trong số những tác nhân của những biến đổi đáng mừng trong đời sống của nước họ. Và không biết là một trùng hợp ngẫu nhiên hay báo hiệu, nhưng cũng ở nước Mỹ ngày nay, nhà văn Tolstoi dẫn đầu các tác giả cổ điển về số lượng sách in. Nhưng phải chăng Tolstoi sẽ thỏa mãn với sự có mặt như thế của mình trong đời sống của nước Mỹ? Thế còn chiến tranh ở Afganistan, ở Irak và chính sách siêu cường quốc mà đa số nhân dân Mỹ ủng hộ, nhưng Tolstoi thì chắc chắn sẽ lên án?
Nếu nói về nước Nga, hiện đang kinh qua một giai đoạn cực kỳ khó khăn trong lịch sử của mình, thì rõ ràng thấy được “sự trở về” của Tolstoi – nhà tư tưởng, bắt đầu từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Sự trở về ấy (đáng tiếc nó đi kèm với sự nguội lạnh nhất định và chắc là nhất thời của công chúng đối với Tolstoi – nghệ sĩ) sẽ mang lại những gì cho dân tộc Nga, văn hóa Nga – chỉ tương lai mới trả lời được câu hỏi ấy. Nhưng có cái tương lai dài lâu ấy không cho nước Nga và cả thế giới – câu hỏi ấy to, lớn hơn rất nhiều và hệ trọng hơn đến mức không thể so sánh, đang còn để ngỏ, gây lo âu khắc khoải cho hàng tỉ người trên hành tinh này. Trong khi một triết gia Nga đương đại khẳng định: loài người còn phải lớn lên hơn nữa thì mới thực sự hiểu được Tolstoi, một triết gia khác in hẳn một cuốn sách dày cộp mang tên “Tồn tại hay không tồn tại… nhân loại?” Hóa ra, vận mệnh của Tolstoi gắn không tách rời với vận mệnh của nền văn minh loài người, mà rất nhiều tai họa, nhiều vấn nạn toàn cầu của nó đã được ông tiên lượng hơn một thế kỷ trước, và cũng Tolstoi ấy đã kiên trì đề xướng một con đường phát triển (“đường sống”, như ông nói) đã bị lịch sử nhân loại gạt bỏ. Vậy chân lý thuộc về ai? Rõ ràng không thuộc về, hay chỉ một phần thuộc về nhân loại. Thế thì có phần chân lý nào không thuộc về Lev Tolstoi? Đặt câu hỏi này, chúng ta tâm niệm lời của Tolstoi khẩn khoản đề nghị mọi độc giả “không vội vã và bực bội mà hãy hiểu và bàn thảo những gì tôi phát biểu, và trong trường hợp không đồng tình thì không với sự khinh bỉ và căm ghét, mà với thái độ tiếc thương và ân cần uốn nắn cho tôi; còn trong trường hợp đồng tình thì nhớ rằng nếu tôi nói ra chân lý, thì chân lý ấy không phải của tôi, mà của Thượng Đế; và rằng chỉ ngẫu nhiên một phần chân lý ấy đã đi qua tôi, hệt như nó đi qua từng người trong chúng ta, khi chúng ta nhận thức và truyền đạt nó”.