Hunger (1974): Nghi lễ của xã hội tư bản
Mượn yếu tố cơn đói và cái ăn đơn thuần, phim hoạt hình ngắn Hunger (1974) của Peter Foldés khơi gợi một câu chuyện lớn hơn về thế giới hiện đại - nơi chủ nghĩa tiêu dùng trở thành nghi lễ của xã hội tư bản.

Hunger của Peter Foldés ra đời hơn 50 năm trước ngay thời điểm lòng tham con người bị chủ nghĩa tiêu dùng kích thích mạnh mẽ. Nhân vật chính là một ông sếp sau giờ tan tầm bắt đầu sa ngã vào thế giới vật chất đầy cám dỗ, từ đối tượng tiêu thụ sản phẩm trở thành sản phẩm bị tiêu thụ chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Bản thể con người khi này bị “băm vằm”, bị “thất đại tội” bên trong phần con lập tức “nuốt chửng” xóa nhòa câu chuyện đạo đức. Đi cùng với câu chuyện là những mảng hình ảnh biếm họa siêu thực, với đường nét cứ liên tục phân rã rồi sáp nhập tạo nên trải nghiệm thị giác tuy kỳ dị mà cực kỳ ấn tượng.
Hunger (tạm dịch: Đói khát) là phim hoạt hình ngắn của đạo diễn Peter Foldés có thời lượng 11 phút 26 giây được National Film Board of Canada phân phối vào năm 1974. Đây là một trong những bộ phim hoạt hình đầu tiên hoàn toàn sử dụng công nghệ máy vi tính và mở ra cho thể loại phim hoạt hình một hướng đi tiên tiến. Chính sự tiên phong về mặt kỹ thuật trong tác phẩm đã tạo nên những thước hình ảnh chuyển động mới lạ hơn bao giờ hết, vô cùng phù hợp với chất kỳ ảo của câu chuyện. Sự liên tục biến dạng, phân mảnh của sự vật càng làm tác phẩm của Peter Foldés thật kỳ quái một cách độc đáo, khơi gợi sự khó chịu mà vẫn kích thích tính tò mò từ người xem.
Tác phẩm sở hữu cho mình hàng loạt giải thưởng tại các liên hoan phim và lễ trao giải lớn của thế giới. Nổi bật trong số đó là Giải thưởng Đặc biệt của Ban Giám khảo cho hạng mục Phim ngắn tại Liên hoan phim Cannes 1974 và giải Phim hoạt hình ngắn xuất sắc nhất tại Giải BAFTA lần thứ 28. Bộ phim cũng từng được đề cử Oscar năm 1975 tại hạng mục phim hoạt hình ngắn xuất sắc nhất cho đến giải thưởng về Thành tựu Kỹ thuật của chính Viện Hàn lâm vào năm 1997.
Tham lam và phàm ăn trong Hunger như biểu hiện của chủ nghĩa tiêu dùng không hồi kết
Khởi đầu từ cuộc Cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ XVIII, cho đến sự bành trướng và chuyển biến sôi động chỉ trong thế kỷ XX, chủ nghĩa tiêu dùng trở thành một trong những chất kích thích để kinh tế-xã hội của một đất nước có thể phát triển, đặc biệt là xã hội tư bản chủ nghĩa – một xã hội “không chỉ không bao giờ đứng yên mà còn không bao giờ có thể đứng yên”1. Xã hội không nên “biết đủ”, lòng tham cần phải được khai mở, tận dụng và “vắt kiệt”. Những kẻ cầm quyền, chủ doanh nghiệp nào biết kích hoạt “cơn đói tiêu thụ” của những người khác thì hắn sẽ lời to, một cộng đồng cũng dễ dàng trở nên giàu sụ.
Sự phàm ăn và hành động ăn uống lặp đi lặp lại trong tác phẩm không chỉ biểu thị lòng tham không đáy ngày càng tăng tiến trong bản chất con người khi được kích thích, mà còn đại diện cho sức tiêu thụ của con người trong xã hội tư bản.
Chủ nghĩa tiêu dùng (consumerism) là một hiện tượng kinh tế-xã hội thúc đẩy mối quan hệ cung-cầu gắn liền với chủ nghĩa tư bản (capitalist). Cụ thể, nó khuyến khích người bình thường tiêu dùng và sở hữu quá mức lượng tài sản và sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, mặc dù những món đồ được mua không cần thiết. Một số trường hợp, người tiêu dùng mua và tích lũy những sản phẩm đắt đỏ, xa xỉ để chứng tỏ giá trị và vị thế cao cấp của bản thân chứ không vì công năng thực tiễn của món hàng. Nhà kinh tế học Victor Lebow nhận xét rằng “Áp lực buộc một cá nhân phải tuân thủ các tiêu chuẩn xã hội an toàn và được chấp nhận càng lớn, thì họ càng có xu hướng thể hiện khát vọng và cá tính của mình qua những gì họ mặc, lái xe, ăn uống – nhà cửa, xe cộ, cách phục vụ thức ăn, sở thích”2.
Nhân vật chính trong tác phẩm Hunger chính là nạn nhân của xã hội tiêu dùng đó. Xuyên suốt tác phẩm với thời gian diễn biến chỉ trong một đêm ngắn ngủi, nhân vật chính luôn ăn những thực phẩm sang trọng, ăn không ngừng nghỉ và ăn những thứ không cần thiết. Một thói tiêu dùng phô trương muốn khẳng định vị thế. Sự phàm ăn và hành động ăn uống lặp đi lặp lại trong tác phẩm không chỉ biểu thị lòng tham không đáy ngày càng tăng tiến trong bản chất con người khi được kích thích, mà còn đại diện cho sức tiêu thụ của con người trong xã hội tư bản. “Cơn đói tiêu thụ” ngày càng bị mất kiểm soát, lượng tiêu thụ chỉ có thể tăng chứ không thể giảm.
Cái nghịch dị (grotesque) xuất hiện trong câu chuyện có bối cảnh hiện đại trong Hunger chính là điểm thu hút hơn cả. Nghịch dị trong văn học nghệ thuật là sự mô phỏng kỳ dị về hình thể và đạo đức. Mục đích của thủ pháp phóng đại này là mang đến tính trào lộng, đến sự chất vấn và mỉa mai bản chất con người và thế giới xung quanh. Sự dị dạng (deformity),tính lai ghép (hybridity), sự biến thái (metamorphosis),…có thể được xem như làcác đặc tính dễ dàng bắt gặp trong văn nghệ có yếu tố nghịch dị.

Trong Hunger, sự phình to và biến đổi của cơ thể của nhân vật chính (kéo giãn tay và cơ thể; hóa thân thành xe ô tô; cơ thể phình to, mọc nhiều miệng, tay,… như quái vật; biến thành người lai máy – cyborg) khi liên tục ăn uống không đơn thuần là yếu tố kinh dị thể xác (body horror) gợi sự khó chịu và ghê sợ. Những hình ảnh nghịch dị này còn ẩn dụ cho sự tác động vòng lặp giữa thế giới tinh thần, chủ nghĩa tiêu dùngvàthế giới vật chất. “Cơn đói tiêu thụ” có khả năng làm biến động, thay đổi chiều kích của kinh tế-xã hội thông qua kích thích lòng ham muốn bên trong con người khi nhìn vào những giá trị vật chất lộng lẫy trước mắt.
Sự lặp lại hành động ăn uống, việc ăn uống liên tục không nghỉ và ăn những thứ mà con người không ăn, đặc biệt là sự nghịch dị trong hình thể của nhân vật chính, tất cả như một quá trình tước bỏ bản sắc và nhân tính, sự phi nhân hóa (dehumanization). Bằng cách này, bộ phim của Peter Foldés chất vấn sự phụ thuộc của con người vào việc tiêu thụ hàng hóa, cũng như chính xã hội tư bản đưa hạt nhân của nó trở thành mắt xích và sản phẩm trong chuỗi sản xuất-tiêu thụ không hồi kết của cỗ máy tiêu dùng lớn hơn đang không ngừng bành trướng. Điều này tương tự như những gì Herbert Marcuse từng nói, về việc con người tìm thấy chính mình trong hàng hóa mà chính họ sở hữu. Thêm vào đó, các nhân vật trong Hunger không một ai có sự cố định mà liên tục phân mảnh, bị nhào nặn như biểu hiện sự khống chế bởi môi trường mà chủ nghĩa tiêu dùng áp đặt lên con người. Chủ nghĩa tư bản nhờ lý do trên mà phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tầng lớp trong xã hội tư bản theo đó mà ngày càng có sự phân chia sâu sắc.
Trong phim hoạt hình ngắn Hunger, người xem có thể nhận thấy những hình ảnh, chi tiết về việc fetish hóa cơ thể phụ nữ dưới nhãn quan nam giới trong xã hội tư bản một cách rõ ràng. Phụ nữ khi này trở thành sản phẩm thương mại, bị tiêu dùng trong logic thị trường để giúp tư bản sinh lời.
Trong một thế giới còn đầy rẫy những hoàn cảnh nghèo đói, khó khăn tiếp cận thực phẩm để tồn tại, chủ nghĩa tiêu dùng kéo dài cho sự chênh lệch giai cấp giàu-nghèo. Đó cũng chính là những gì diễn ra trong phân đoạn cuối của bộ phim. Nhân vật chính rơi tự do rất lâu trước khi đáp xuống nơi cư ngụ của một cộng đồng người nghèo đói trơ xương, như một sự biểu hiện khoảng cách rất lớn trong sự phân tầng của xã hội tư bản. Trong trạng thái điên vì đói, đám người hỗn loạn bu quanh nhân vật chính mà cắn xé con mồi béo bở. Chủ thể tiêu thụ sản phẩm sau một quá trình phi nhân hóa trở thành sản phẩm bị tiêu thụ.
Sự phân tầng giai cấp càng sâu sắc thì mâu thuẫn sẽ càng dễ dàng bị kích thích thành xung đột. Cái kết của bộ phim như một sự ẩn dụ về sự tranh lấy quyền lực, lật đổ kẻ thống trị của đám người bị trị trong xã hội tư bản. Sự chấm hết của nhân vật chính nghịch dị trở thành “một trò cười và sự giải thiêng đối với cái tuyệt đối của lịch sử, của thần thánh, của thiên nhiên và của số mệnh”. Xã hội bất bình đẳng mà chủ nghĩa tư bản tạo dựng, cùng thứ vật chất và ham muốn quyền lực mà giới tư sản tôn sùng không phải là mãi mãi.
Dâm dục – fetish hóa phụ nữ phơi bày sự áp chế vô hình của chế độ gia trưởng và chủ nghĩa tiêu dùng
Peter Foldés là một người nghệ sĩ với tư duy vượt thời đại khi luôn phản tư, tách mình ra khỏi trung tâm quyền lực, trung tâm nam quyền hoặc ngay cả trung tâm nhân luận để đứng bên ngoài quan sát. Điều đó luôn thể hiện rõ trong những tác phẩm của ông. Dù là một nghệ sĩ nam dị tính, nhưng trong các tác phẩm đề cập đến phụ nữ của mình, Peter luôn có sự rời khỏi ánh nhìn quyền lực của chế độ gia trưởng để phản ánh chân thực thế giới, mà ở đây là sự bất bình đẳng giới.

Hai tác phẩm Je, tu, elles (1971) và Hunger (1974) của Peter Foldés thể hiện rõ ràng tinh thần của nữ quyền luận “làn sóng thứ hai” phát triển cuối thập niên 1960 – đầu thập niên 1970 là “giải phóng khỏi sự áp bức của một xã hội được xác định bởi chế độ gia trưởng, và địa điểm đấu tranh quan trọng là chính cơ thể phụ nữ”3. Trong phim hoạt hình ngắn Hunger, người xem có thể nhận thấy những hình ảnh, chi tiết về việc fetish hóa cơ thể phụ nữ dưới nhãn quan nam giới trong xã hội tư bản một cách rõ ràng. Phụ nữ khi này trở thành sản phẩm thương mại, bị tiêu dùng trong logic thị trường để giúp tư bản sinh lời.
Fetish hóa (fetishization) là quá trình gán ghép cho người, sự vật, hiện tượng bằng những giá trị, sức mạnh quá mức hoặc phi lý tách khỏi cái gốc ban đầu của nó. Quá trình này tạo nên sự khác biệt, lạ hóa, đưa đối tượng khỏi cái toàn thể và chỉ được nhìn nhận như một bộ phận riêng biệt. Mục đích cuối cùng của quá trình này là để thỏa mãn ham muốn của người khác, để sở hữu hoặc tiêu dùng như một sản phẩm. Fetish hóa một con người thường tước đi bản sắc và cá tính của người đó, một số trường hợp còn là sự thủ tiêu nhân tính. Fetish hóa có nhiều dạng khác nhau tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể.
Trong Hunger của Peter Foldés, quá trình fetish hóa diễn ra trong các phân đoạn có sự xuất hiện của phụ nữ, đặc biệt hơn cả là nhân viên phục vụ nhà hàng. Sự hiện diện của cô nhân viên phục vụ với thời lượng lớn trở thành hình tượng để Peter Foldés phơi bày cách thức phụ nữ trong thế giới tiêu dùng bị tiêu thụ về mặt thị giác và tính dục như thế nào. Tất cả sự xuất hiện của phụ nữ trong phim đều được đạo diễn khắc họa có các chi tiết hấp dẫn giới, gợi khoái cảm cho nhân vật chính của tác phẩm. Khi này, Peter Foldés đang mượn fetish hóa phụ nữ theo hướng tính dục (sexual fetishism) dưới nhãn quan nam giới (male gaze) để người xem nhận diện sự hợp lực vô hình của chế độ gia trưởng và chủ nghĩa tiêu dùng.
Có thể thấy rõ ràng người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm Hunger, với sự tương tác với nam giới là nhân vật chính, luôn bị biến thành đồ vật.
Đầu tiên, cô nàng xuất hiện và ăn vận trang phục hở hang với quần ngắn, áo hai dây bó sát khoe ngực, mông, đùi và chân, như một sự trình hiện khiêu dâm. Điều đó cho thấy nhân vật chính có thể đã bước vào một nhà hàng vú (breastaurant) – một mô hình kinh doanh hấp dẫn xuất phát tại xã hội tư bản Mỹ có cách phục vụ vừa thỏa mãn cả cơn đói lẫn bụng dạ háo sắc của đàn ông. Không chỉ dừng lại ở trang phục, cô bồi bàn trong Hunger tiếp tục được khắc họa với sự thẹn thùng đứng bên cạnh đàn ông đang vuốt cằm đánh giá thái độ của cô. Ngay sau đó, cô nàng liên tục biến dạng thành trái tim, đôi môi, gương mặt, cơ thể khỏa thân rồi cây kem ngọt ngào. Tất cả sự biến hóa của cô nàng đều vây xung quanh nhân vật chính – trong khi ông ta không hề bị biến đổi mà chỉ ngồi quan sát. Người phụ nữ khi này trở thành đối tượng bị ngắm nhìn, bị coi như sản phẩm để tiêu dùng (cây kem), bị ghi nhớ chỉ bởi các bộ phận riêng lẻ đầy sức hút của bề ngoài (môi, mặt, cơ thể) và sự trình hiện khiêu dâm (khỏa thân). Cô gái không hề được quan tâm về khía cạnh cá tính, giá trị của bản thân bị rút gọn trong chớp mắt.
Một trong những cách thức fetish hóa con người dễ nhận thấy nhất là vật hóa (objectification) – một hành động tước bỏ nhân tính và đối xử với con người (thường là phụ nữ) như vật thể. Có thể thấy rõ ràng người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm Hunger, với sự tương tác với nam giới là nhân vật chính, luôn bị biến thành đồ vật. Nói rộng ra hơn nữa, phụ nữ đang bị chi phối bởi chủ nghĩa tiêu dùng trong xã hội tư bản. Cô bồi bàn ngay tại thời điểm biến đổi thành cây kem đã bị tước bỏ hoàn toàn nhân tính, bị nhân vật chính sở hữu, ẩn dụ cho việc sự hàng hóa hóa (commodification) phụ nữ. Phân đoạn đã củng cố thêm việc cô nàng hoàn toàn trở thành sản phẩm để người khác tiêu thụ, trở thành mắt xích yếu ớt bị khống chế. Điều này mở ra cho người xem thấy rằng phụ nữ rất dễ dàng bị “nhào nặn” bởi nam giới nói riêng, và chuỗi sản xuất-tiêu dùng của xã hội tư bản nói chung.
Chưa dừng lại ở đó, khi kết thúc “giai đoạn tán tỉnh” thể hiện ở việc khép lại những chuyến phiêu lưu mua sắm và bữa ăn thịnh soạn với nhân vật chính, tại cái ôm hôn bắt đầu ở phút 07:30, cô nàng bị tan rã thành nồi niêu xoong chảo, rồi bị nhân vật chính đá văng và “hóa thân” thành không gian nhà bếp. Chuỗi hình ảnh này vừa mang tính xúc phạm, vừa tiêu chuẩn hóa sự phân công lao động của người phụ nữ khi về chung một nhà với nam giới buộc phải trở thành người nội trợ. Công việc nội trợ lại đưa phụ nữ trở thành lực lượng tiêu dùng chủ chốt, mua hàng hóa chăm lo cho nhà cửa và gia đình. Và thế là thị trường tiêu dùng lại được thúc đẩy và củng cố lại chế độ gia trưởng trong xã hội tư bản.
Phân đoạn vật hóa cuối cùng trong Hunger cho thấy người phụ nữ không được tôn trọng, từ bị xóa nhòa vai trò lao động trước đó cho đến bị tước đi cơ hội lao động được trả lương, bị thủ tiêu những khả năng mà họ có thể sở hữu được địa vị và tài chính ngang bằng với nam giới. Họ lại một lần nữa bị rập khuôn vào hình ảnh nội trợ (bị cho là vai trò tự nhiên) xuyên suốt lịch sử chế độ gia trưởng với mục đích tái tạo miễn phí sức lao động cho nam giới. Thực tế, việc duy trì phân công lao động nội trợ cho phụ nữ trong gia đình luôn luôn có lợi trực tiếp cho nam giới và có lợi gián tiếp cho xã hội tư bản, như quan điểm nghiên cứu của các nhà nữ quyền như Heidi Hartmann hay Christine Delphy và Diana Leonard.
Loạt hình ảnh fetish hóa người phụ nữ một cách liên tục trong Hunger tạo nên những cơn khó chịu và bức bối cho người xem, đặc biệt là phụ nữ. Chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa tư bản và chế độ gia trưởng luôn có cách hợp tác ăn ý bị che mờ để áp bức phụ nữ. Tác phẩm này buộc người xem phải đối diện để dễ dàng nhận diện, từ đó phản kháng và thoát khỏi áp bức vô hình mà chế độ gia trưởng và chủ nghĩa tiêu dùng cùng nhau thông đồng để thống trị bên trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Kết luận
Hunger của Peter Foldés không đơn thuần mang đến sự ấn tượng thị giác nhờ kỹ thuật vi tính sơ khai còn mới mẻ trong nền công nghiệp hoạt hình lúc bấy giờ, mà còn hòa chung vào làn sóng văn hóa phản kháng xảy ra đầu thập niên 1960 đến giữa thập niên 1970. Bộ phim đã tỉ mỉ sử dụng hình ảnh để kể một câu chuyện với quy mô lớn hơn rất nhiều so với sự sa đọa vào cái hố tham lam. Tác phẩm không chỉ phê phán chủ nghĩa tiêu dùng mà còn như sự cảnh báo về cái kết của một thiết chế xã hội không bao giờ cảm thấy đủ và đầy rẫy bất bình đẳng giai cấp, dự đoán về một xã hội phản địa đàng đang mon men hình thành để đảo ngược tình thế của cấu trúc xã hội đương đại. Cùng với đó là phơi bày việc phụ nữ bị đàn áp, bị triệt tiêu tiếng nói, bản sắc và cơ hội lao động để củng cố quyền nam trị, tối đa hóa lợi nhuận trong logic thị trường cũng như tái sản xuất bất bình đẳng giới trong xã hội tư bản.□
——–
Chú thích
1 Kerryn Higgs. (11/01/2021). A Brief History of Consumer Culture. The MIT Press Reader. Truy xuất từ https://thereader.mitpress.mit.edu/a-brief-history-of-consumer-culture/
2 Victor Lebow. (1955). Price Competition in 1955. Journal for Retailing. Truy xuất từ https://mronline.org/wp-content/uploads/2019/07/Lebow.pdf
3 Jane Pilcher, Imelda Whelehan. (2022). Khái niệm then chốt trong nghiên cứu giới (Nguyễn Thị Minh dịch) (tr. 46). Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Phụ nữ Việt Nam.
Bài đăng Tia Sáng số 18/2025