MARIA CALLAS – Huyền thoại opera thế kỷ 20

Maria Callas không sở hữu giọng hát cũng như kĩ thuật thanh nhạc hoàn hảo tuyệt đối, nhưng nếu để chọn một soprano tiêu biểu nhất của thế kỉ 20, người ta không thể không nhắc đến bà - một nghệ sĩ tài năng với cuộc đời đầy bi kịch, đau đớn, thất bại và vinh quang chói lọi, một huyền thoại opera thế kỉ 20.

Cô bé Maria Kalogeropoulos chào đời vào ngày 2-12-1923 tại New York, Mỹ trong một gia đình di cư gốc Hi Lạp với cái tên đầy đủ là Cecilia Sophia Anna Maria Kalogeropoulos. Ông bà Kalogeropoulos và Evangelina vừa mất đi đứa con trai 3 tuổi vì bệnh dịch, nên mong muốn đứa trẻ sẽ là một bé trai. Bởi vậy, ngay từ khi Maria ra đời, bà Evangelina đã gần như chối bỏ đứa con gái này của mình.
Lên 9 tuổi, Maria đã bắt đầu làm quen với piano. Với trí thông minh, nhạc cảm tuyệt vời, Maria hoàn toàn có thể trở thành một nữ nghệ sĩ piano tài danh nếu không đi theo con đường opera. Thậm chí sau này, khi tiếp nhận vai mới, Maria luôn tự vỡ bài một mình mà không cần đến người hướng dẫn đệm đàn riêng. Niềm đam mê ca hát đã đến với Maria từ những lần lén nghe cô chị ruột Jakie học hát. Trái ngược với sự thờ ơ dành cho Maria, Jakie xinh đẹp luôn được cả nhà yêu mến, cô được học hát, học đàn, trong sự tán dương của cha mẹ, thế nhưng Jakie luôn tiếp thu những bài luyện thanh chậm hơn cô em gái. Năng khiếu thiên bẩm càng bộc lộ khi Maria đạt giải nhì trong một cuộc thi hát thiếu nhi trên sóng phát thanh với ca khúc “La paloma”.

“Tôi không phải là một thiên thần, và cũng chẳng việc gì phải cố tỏ vẻ như vậy – đó không phải vai diễn của tôi, nhưng tôi cũng không phải là kẻ độc địa. Tôi là một người phụ nữ và còn là một nghệ sĩ chân chính, vì vậy tôi muốn được đối xử một cách công bằng”.
                               Maria Callas

Cuối năm 1936, cha mẹ Maria li dị, bà Evangelina dắt theo Maria trở về Hi Lạp. Đây thực sự là một điều đau khổ đối với cô bé 13 tuổi, vì Maria luôn gắn bó với bố hơn là với người mẹ khắc nghiệt. Trở về Hi Lạp nhưng Maria không quên ước mơ cháy bỏng đến với sân khấu opera lộng lẫy. Maria tiếp tục học nhạc và đến năm 1938, khi mới 15 tuổi đã được nhận vào học tại Nhạc viện quốc gia Athens, dù độ tuổi thấp nhất để có thể được nhận vào là 16. Maria học thanh nhạc dưới sự hướng dẫn của giảng viên Maria Trivella. Việc học tuy không mang lại nhiều hiệu quả nhưng ngay từ năm đầu tiên, Maria đã chiếm giải nhất trong vai diễn đầu đời – Santuzza (Cavaleria Rusticana, Pietro Mascagni) trong cuộc thi của nhạc viện. Maria lập tức lọt vào mắt xanh của giảng viên Elvira de Hidalgo – một trong những coloratura soprano Tây Ban Nha nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Đây là bước ngoặt lớn trong cuộc đời của cô, chính nhờ những bài luyện thanh đặc biệt của Hidalgo, Maria đã nắm vững hầu hết những kĩ thuật khó khăn nhất của trường phái opera bel canto, cho dù giọng hát bẩm sinh của cô là kịch tính (dramatic soprano). Năm 1939, Maria đã có vai diễn chính thức đầu tiên, một vai nhỏ trong vở operetta của Franz von Suppé: Boccaccio. Năm 1941, may mắn đến với Maria khi được nhận vai chính Tosca tại Athens Opera. Buổi biểu diễn thành công vang dội, Maria nhận được không ít lời mời tại các nhà hát opera Hi Lạp…
Năm 1944, Maria quyết định sang Mỹ để tìm cha và thử vận may. Từ đây, Maria Kalogeropoulos chính thức đổi tên trở thành Maria Callas. Thời gian đầu, Callas vẫn luyện tập để hoàn thiện kĩ thuật thanh nhạc và giọng hát, sau đó quyết định tham gia nhà hát Metropolitan Opera. Ngay từ khi tuyển, Callas đã không được chấp nhận cho đến khi Edward Johnson – Tổng Giám đốc của nhà hát Metropolitan nghe cô thử giọng và quyết định giao cho cô 2 vai chính trong vở Madama Butterfly (Giacomo Puccini) và Fidelio (Ludwig van Beethoven) ngay trong mùa diễn năm đó. Nhưng trái với sự kì vọng của Edward, Callas đã từ chối cả 2 vai này. Callas cho rằng, cô không muốn hát Fidelio bằng tiếng Anh, còn vai diễn mỏng manh yếu đuối Cio-cio San quá nhẹ đối với với giọng hát kịch tính, mạnh mẽ của cô.
Thất bại ở Met không làm Callas nản lòng. Sang Ý, cái nôi của nghệ thuật opera thế giới, Callas lại tiếp tục may mắn khi cô được Giovanni Zanatello lựa chọn cho vai chính trong vở La Gioconda (Amilcare Ponchielli), khi ông đang lựa chọn diễn viên cho buổi biểu diễn năm 1947 tại Verona Opera Festival. Ít lâu sau, Callas lọt vào mắt xanh của nhạc trưởng nổi tiếng Tullio Serafin. Nhận thấy tố chất của giọng hát kịch tính bẩm sinh, Serafin đã mời Callas tham gia vào hàng loạt những vai nặng như Isolde (Tristan và Isolde), Turandot (Turandot), Brnnhilde (Die Walkre). Năm 1948, một bước ngoặt quan trọng khác đến một cách bất ngờ. Callas khi ấy vẫn đang tập dượt vai Brnnhilde (Die Walkre), quá mệt mỏi với những “Ho-jo-to-hos”, Callas đã quyết định tự giải trí bằng cách hát vui một đoạn nhạc trong I Puritani (Vincenzo Bellini). Tình cờ vợ của Serafin nghe được và bà đã lập tức nói lại với chồng. Serafin lúc này đang gặp khó khăn khi nữ ca sĩ Margherita Carosio – người đóng vai Elvira (I Puritani) bị ốm mà ông chưa tìm được diễn viên đúp 2 thay thế. Callas là lựa chọn duy nhất. Thật không ngờ, I Puritani đã thành công hơn cả mong đợi qua sự thể hiện xuất sắc của Callas. Từ đây, tên tuổi của Callas đã thực sự tỏa sáng khắp nước Ý với những vai diễn coloratura soprano. Chính những bài tập nghiêm khắc năm nào của Hidalgo đã giúp Callas chiếm được cảm tình đối với những khán giả khắt khe của đất nước hình chiếc ủng. Callas đã thức tỉnh opera bel canto – dòng opera đề cao nghệ thuật hát đẹp truyền thống của Ý từng có thời bị rơi vào quên lãng.
Chỉ 3 tháng sau sự kiện quan trọng ấy, ngày 21-4-1949, tại Verona, Callas đã quyết định kết hôn với nhà tài phiệt hơn cô gần ba chục tuổi, Giovanni Battista Meneghini. Với ảnh hưởng lớn, quan hệ rộng và nguồn lực tài chính dồi dào, Meneghini trở thành người quản lí chính thức cho Callas và ông đã giới thiệu tài năng người vợ trẻ của mình không chỉ ở nước Ý mà trên khắp châu Âu. Callas được thử sức ở hàng chục vai và bất cứ vai nào cũng thành công vang dội.
Năm 1953, Callas được EMI Classics mời thu âm vở opera Lucia di Lammermoor (Gaetano Donizetti). Sau đó Callas tiếp tục thu âm một loạt những tác phẩm khác như I Puritani, Cavalleria Rusticana dưới sự chỉ huy của Serafin và đặc biệt là Tosca nổi tiếng (dưới sự chỉ huy của Victor de Sabata, cùng với tenor Giuseppe di Stefano và baritone Tito Gobbi). Năm 1954, chỉ trong 1 năm, Callas đã giảm hơn 30 cân, vịt con xấu xí ngày nào vụt biến thành nàng thiên nga kiêu hãnh, lộng lẫy. Những fan cuồng nhiệt của nhà hát La Scala đã xưng tụng Callas là “La Divina – Nữ thần”. Thời kì này đánh dấu sự chín muồi của Callas không chỉ ở giọng hát, kĩ thuật thanh nhạc, mà ở cả khả năng nhập vai, diễn xuất rất tinh tế, giàu biểu cảm. Sau đêm diễn La Traviata tại Verona, soprano huyền thoại người Đức Elisabeth Schwarzkopf đã quyết định sẽ không đóng Violetta nữa vì bà cho rằng: “Còn lấy đâu ra cảm xúc để diễn nữa, khi cô ấy đã thể hiện Violetta quá hoàn hảo rồi”. Schwarzkopf trở thành một trong những người bạn, người chị thân thiết của Callas trong suốt sự nghiệp.
Callas quyết định quay trở lại Mỹ bằng vai diễn Norma (Norma, Bellini) tại Lyric Opera, Chicago và tiếp tục thẳng tiến đến nhà hát Metropolitan. Nhưng một điều không may đã đến với Callas, Tạp chí Time đã có một bài phỏng vấn Evangelina, người mẹ khắc nghiệt của cô – người Callas cho rằng đã tước đoạt hoàn toàn tuổi thơ của mình. Callas từng tuyên bố rằng: “Điều duy nhất mà tôi muốn thấy là bà mẹ khốn kiếp của tôi nằm đơ trong quan tài và lúc đấy thì tôi có thể an tâm là mụ ấy chết rồi”. Bà Evangelina, đã thề rằng, bà sẽ không bao giờ nhìn mặt người con gái hỗn xược của mình nữa và bà đã giữ trọn lời thề đấy cho đến lúc nhắm mắt. Cùng với thái độ tức giận của người mẹ, bài báo đã miêu tả Callas như một đứa con vô ơn và bất hiếu. Công chúng New York dưới tác động bài phỏng vấn đã hoàn toàn ghẻ lạnh với sự xuất hiện Callas. Đêm diễn hôm đó, bên cạnh những bạn diễn Mario del Monaco, Fedora Barbieri và Cesare Siepi, với sự diễn xuất và cách thể hiện hoàn hảo, Callas đã lấy lại được cảm tình của khán giả, vượt qua mọi định kiến. Kết thúc buổi biểu diễn, Callas đã nhận được 16 lần gọi ra sân khấu trước sự hoan nghênh nhiệt liệt của khán giả. Tên tuổi của Callas đã hoàn toàn được khẳng định trên khắp thế giới.
Tiền bạc và danh tiếng đến quá nhanh đã biến Callas trở thành một người phụ nữ ngạo mạn và ích kỉ. Callas luôn tự cho mình phải là trung tâm của đêm diễn, luôn giành lấy sự tán thưởng của khán giả và có những đòi hỏi thái quá về catse cũng như các điều kiện liên quan. Vì vậy, ngay cả những bạn diễn thân thiết từng cộng tác nhiều lần với cô như Giuseppe di Stefano hay Mario del Monaco cũng than phiền nhiều lần về tính khí quá kì quặc, đồng bóng ấy. Đỉnh điểm là cuộc đối đầu với diva nổi tiếng đương thời Renata Tebaldi. Ban đầu chỉ là những tranh chấp vai diễn nho nhỏ, rồi những lời qua tiếng lại trên mặt báo, Callas luôn mỉa mai Tebaldi bằng những lời lẽ cay nghiệt nhất, thậm chí một lần Callas đã phát biểu rằng: “Renata Tebaldi chỉ là cô ca sĩ không có cột sống” (ám chỉ căn bệnh viêm tủy của Tebaldi). Tebaldi trả lời: “Có thể tôi không có xương sống, nhưng tôi có thứ mà Callas chẳng bao giờ có, đó là trái tim”. Và Tebaldi sau đó không bao giờ tranh luận với Callas hiếu thắng nữa. Cuộc đối đầu kéo dài suốt gần 20 năm và thậm chí nó còn kéo theo sự phân biệt chia rẽ của những người hâm mộ hai siêu sao này. Ngày 16-9-1968, Callas đã đến xem buổi biểu diễn Adriana Lecouvreur (Francesco Cilea) và ôm hôn, chúc mừng Tebaldi nhân sự thành công của đêm diễn, đây được xem như hành động xin lỗi và làm hòa chính thức của Callas.
Tuy nhiên, cuộc sống của Callas lại gặp biến động khi rơi vào vòng tay của nhà tỉ phú Aristotile Onassis và cuộc hôn nhân với Meneghini nhanh chóng kết thúc. Suốt 2 năm, Callas chìm đắm trong những cuộc ăn chơi xa hoa, phù phiếm với Onassis. Cùng với mối tình nóng bỏng, mãnh liệt này là sự xuống dốc không phanh trong sự nghiệp ca hát. Trong suốt 7 năm, Callas tham gia rất ít các buổi diễn opera chính thức, chỉ thỉnh thoảng biểu diễn một vài buổi recital tại các phòng hòa nhạc nhỏ. Mãi đến năm 1965, Callas mới quyết định quay lại với sân khấu opera. Tosca là một lựa chọn thông minh và vai diễn đã đem lại danh tiếng cho Callas tại Met. Nhưng đó chỉ là sự lóe sáng tức thời, Callas bắt đầu có những dấu hiệu bất ổn về giọng hát, cùng với sự xuất hiện của một loạt các tên tuổi khác không thua kém gì về kĩ thuật, giọng hát, khả năng diễn xuất, Callas gần như bị lu mờ. Thế rồi, Onassis phản bội Callas, để theo đuổi con đường chính trị, nhà tỉ phú đã quyết định thành hôn với bà quả phụ Jacqueline Kennedy (vợ của cố Tổng thống Kennedy). Callas trong tột cùng đau đớn của một người phụ nữ bị mất tất cả, đã từng thốt lên rằng: “Đầu tiên tôi mất đi giọng hát, sau đó là sắc đẹp và cuối cùng tôi mất Onassis”.
Trong 2 năm 1971 – 1972, Callas đã tham gia giảng dạy một số khóa học Master class tại Juilliard School of Music. Chính tại đây, Callas gặp lại người đồng nghiệp năm xưa Giuseppe di Stefano. Chính di Stefano đã mời Callas trở lại sân khấu bằng chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới để kiếm tiền chữa bệnh cho đứa con gái của ông. Callas đã chấp thuận lời đề nghị của người bạn thân, tour diễn đã kéo dài từ 25-10-1973 cho đến cuối năm 1974 và gây được tác động tốt với khán giả. Ngày 11-11-1974, buổi biểu diễn cuối cùng trong tour diễn được tổ chức tại Sapporo, Nhật Bản – và đây cũng chính là nơi cuối cùng trên thế giới được thưởng thức giọng hát của Callas.
Năm 1975, Onassis qua đời vì căn bệnh viêm túi mật. Callas rời bỏ nước Mỹ, chuyển sang Paris sống một cuộc sống ẩn dật. Ngày 16-9-1977, bà qua đời tại nhà riêng, khi mới 54 tuổi. Không ai biết gì về nguyên nhân cái chết của Callas. Số phận với những khoảnh khắc thăng trầm trong tình yêu và sự nghiệp của Callas có gì đó gần với bi kịch của nữ ca sĩ Tosca- một trong những vai diễn thành công nhất của bà. “Vissi d’arte, vissi d’amore” – “Tôi sống vì nghệ thuật, tôi sống vì tình yêu”, có lẽ chỉ cần một câu hát đấy thôi, cũng đủ để khắc họa tính cách, con người và cuộc đời của người nữ danh ca tài hoa bạc mệnh này rồi!

Tác giả

(Visited 30 times, 1 visits today)