Một lịch sử khác vùng biên viễn
“Lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê, 1866-1888” là một sự bổ khuyết vào lịch sử đã biết của vùng đất An Khê, một phần quan trọng của Tây Nguyên hùng vĩ nhưng cho đến ngày nay vẫn còn nhiều khoảng trống.

An Khê bấy lâu nay được biết đến như Tây Sơn thượng đạo, căn cứ địa vững chắc của ba anh em nhà Tây Sơn trong cuộc giao tranh với nhà Nguyễn. Lùi về những quá khứ xưa hơn nữa của vùng đất này, đó là chốn trú ngụ của những cư dân sơ kỳ Đồ đá cũ và xa xôi hơn nữa, là nơi từng diễn ra những hoạt động kiến tạo vô cùng phức tạp để cuối cùng hình thành vùng địa chất khác biệt so với vùng đất rộng lớn hơn xung quanh.
Lịch sử vùng đất này chồng lấn vô số những điều đã biết và chưa biết, bởi những gì chúng ta đã biết dường như vẫn còn ít ỏi, chưa đủ để hình dung ra sự phát triển của cả vùng đất dưới bàn tay khai phá của con người. Vì thế, vùng đất này vẫn còn nằm ở vùng ngoại biên, “chưa từng được biết đến dưới những khía cạnh lịch sử khác”, như chia sẻ của một người con An Khê, bà Nguyễn Thị Thanh Lịch, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai, trong lời nói đầu cuốn sách “Lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê, 1864-1888”. Trong khoảng trống về những khía cạnh lịch sử khác ấy, cuốn sách của giáo sư Andrew Hardy, một nhà sử học người Pháp gắn bó với Việt Nam trong vòng mấy chục năm, đã trở thành một miếng ghép có ý nghĩa, lý giải những gì diễn ra trong không gian địa chính trị này nửa cuối thế kỷ 19, lần tìm sợi dây gắn kết An Khê với triều đình trung ương, những quyết sách khai khẩn, mở rộng cương vực đất nước để làm bàn đạp chống lại người Pháp.
Những chiến lược xoay vần đại cục
Những gì người ta biết về An Khê trước đây rất ít ỏi, ngoại trừ “một tiền đồn giao thương nằm ở vùng cao để kết nối với đồng bằng bởi những con đường mòn đầy dấu chân hổ”. Tiềm năng giao thương hai miền xuôi ngược có lẽ được bắt đầu từ những nhu cầu trao đổi sản vật hết sức thiết thực của những người Thượng bản địa và người Kinh, người Hoa “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên”. Vào thế kỷ 18 và 19, mối quan hệ chính nảy sinh ở An Khê là quan hệ giao thương buôn bán làm giàu tự phát của dân chúng, trong khi sự hiện diện của chính quyền cũng chỉ là những chấm điểm mờ nhạt – đồn lính canh được dựng lên bên bờ sông Ba để ngăn ngừa các vụ cướp phá, “binh lính canh phòng kẻ cướp, kẻ cướp cướp của thương nhân trên đường rừng”. Nhiều năm sau, khi công sứ Quy Nhơn Auguste Navelle đi công cán tại An Khê, ông phát hiện ra vẻ “khổ hạnh và hoang tàn: một cái cồng, vài ngọn giáo, một ít chõng tre, mấy cây súng hỏa mai cũ rích trên giá mục, tất cả đều phủ bụi” hay ‘trạm gác đứng chốt bên đường giống nông trang hơn một đồn canh” – những biểu hiện ít được chăm chút không thể che giấu của hệ thống đồn trú ở “biên giới thực sự của nước An Nam”.
Có vẻ như, An Khê không phải là một lựa chọn phát triển của triều đình Đại Nam, khi “bỏ mặc cả một vùng bình nguyên rộng lớn cho cây cỏ hoang dại mà không cải tạo khai thác”. Ngoài việc e ngại đây là nơi phát tích của anh em Tây Sơn thì có thể là triều đình còn đang ưu tiên giải quyết những vấn đề nước sôi lửa bỏng như thiên tai hạn hán, mất mùa, nạn đói, cướp bóc, nổi loạn xảy ra 1.

Vị trí quyền lực chính trị của An Khê, kể từ thời là đại bản doanh của anh em nhà Tây Sơn, chỉ thực sự trở lại sau một loạt biến chuyển. Trước hết, bước chân các nhà truyền giáo trốn tránh đàn áp của triều đình Huế đã tìm ra chốn nương náu và mở rộng ảnh hưởng ở An Khê. Có thể, người Pháp đã sớm nhìn nhận nơi này không chỉ là điểm kết nối miền ngược miền xuôi mà còn là cửa ngõ vào Tây Nguyên.
Tuy nhiên, những người có con mắt chiến lược ở triều đình Huế cũng nhận thấy điều đó. Bản tấu “Khai sơn quốc nghị” của quan bố chánh Nguyễn Thông vào năm 1869 đệ trình ý tưởng khai hoang, định cư trên toàn vùng Tây Nguyên. Sau đó, Trần Hy Tăng, tri phủ An Nhơn, người vẫn dõi theo An Khê từ đồng bằng, thẳng thắn nêu trong một bản tấu “Xét về tình thế đại cục hiện nay, không gì cấp bách hơn là là việc xử lý, chỉnh đốn tình trạng trong nước, mà miền thượng du có thể làm giảm bớt sự cấp bách căng thẳng”.
“Sự cấp bách căng thẳng” mà Trần Hy Tăng hàm ý đến trong bản tấu là sức ép của người Pháp, kể từ sự kiện 1858. Vì vậy, triều đình nhà Nguyễn đã chấp nhận một cú đánh cược chính sách vào miền thượng du này. Thành công, nếu đến, không chỉ mở rộng cương vực đất nước mà vùng đất màu mỡ này sẽ còn trở thành chỗ dựa vững chắc để nuôi dưỡng nguồn lực chống Pháp, cả về nhân lực lẫn lương thực.
Không nói quá khi nói triều đình nhà Nguyễn đánh cược vào An Khê, bởi theo lý giải của giáo sư Hardy trong cuộc tọa đàm ra mắt sách vào ngày 1/3/2025, đây là lần đầu tiên trong lịch sử các triều đại Việt Nam sự ‘phá lệ’ khai khẩn một vùng cao thay vì đồng bằng như quen thuộc, để rồi đưa một cộng đồng người Kinh lên sinh sống ở một vùng có độ cao 450 mét so với mặt nước biển. Tuy nhiên, không phải là triều đình Đại Nam mạo hiểm hoàn toàn. Họ còn có một cú neo đầy thực dụng ở phía sau, một công thức đã được kiểm chứng độ hiệu nghiệm – “mô hình chiếm đóng, học từ Trung Hoa thuở trước và đã được áp dụng trong nhiều thế kỷ mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Đó là hình thức đồn điền”. Bao giờ cũng vậy, việc khai khẩn đất đai hoang hóa thường bắt đầu từ việc tuyển lựa người để hình thành các đồn điền rồi phát triển thành làng xã định cư. “Mô hình này vẫn được áp dụng trên nhiều khu vực đồng bằng châu thổ nhưng An Khê mới là vùng cao đầu tiên được thử nghiệm”, song lần đầu cũng là lần chót bởi “đây là lần cuối cùng mà [một triều đại phong kiến Việt Nam] sử dụng ở vùng cao nhằm chiếm cứ vùng lãnh thổ mới”, giáo sư Hardy giải thích.
Cuộc thử nghiệm của triều Nguyễn đã đưa An Khê, từ vùng ngoại biên của lịch sử trở lại vị thế quan trọng ở tầm quốc gia trong một giai đoạn nhiều biến động.
Cuộc thử nghiệm chính sách của triều Nguyễn đã đưa An Khê, từ vùng ngoại biên của lịch sử trở lại vị thế quan trọng ở tầm quốc gia trong một giai đoạn chất chứa nhiều biến động, thông qua các hòa ước triều Nguyễn ký với người Pháp, Hòa ước Nhâm Tuất (1862) cắt ba tỉnh Nam Kỳ, Hòa ước Quý Mùi (1883), Hòa ước Giáp Thân (1884) và sự thất thủ của thành Hà Nội (1873). Nếu nhìn vào các mốc thời gian đáng nhớ này, có thể thấy, chính sách khai hoang mà triều đình Huế áp đặt ở An Khê không chỉ phản chiếu và còn được thúc đẩy rất rõ bởi “sự hỗn giao của hai đế chế”. Ba dự án lần lượt được thực hiện vào các năm 1864-1867, 1870-1872, 1877-1888 như một nỗ lực tuyệt vọng.
Ở độ cao 450 mét so với mực nước biển, An Khê thuở đó là một thử thách với người đồng bằng. Tri phủ Trần Hy Tăng đã phải mất tới một ngày rưỡi trong “khí núi rất nặng” từ An Nhơn mới lên đến nơi để rồi nhìn thấy tiềm năng của nó, dẫu trở lực ban đầu là “lam chướng nặng nề, dân cư thưa thớt mà nguồn lực thiếu thốn”. Ba đợt di dân theo chính sách của triều Nguyễn, trong bối cảnh cấp bách, đều phải đối mặt với những trở lực này. Rút cuộc, trong cuộc đối kháng, chống chọi với tự nhiên từng khiến những người đảm lược như Trần Hy Tăng cũng nhuốm bệnh qua đời, ba dự án đã thất bại hai và chỉ thành công ở lần cuối cùng. Phải chăng chính sách mà triều đình Huế chuẩn bị cho các dự án đã chưa đủ lực để nó đi tới kết cục tốt đẹp như mong muốn? Có vẻ như, theo những gì có trong 50 châu bản triều Nguyễn mà giáo sư Hardy được tiếp cận thì hai dự án đầu, dù thất bại với nhiều nguyên nhân cụ thể, nhưng có thể quy lại ngắn gọn là sự kết hợp không thành công của chính sách quốc gia và nguồn lực địa phương, nghĩa là mang danh quốc gia nhưng kinh phí dành cho chúng vẫn dựa vào địa phương, không bền vững và dễ bị lợi dụng.
Dự án thứ nhất được đặt dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Đức Thăng, một viên quan điển bạ có quyền lực đứng vào hàng thứ hai vùng biên viễn, và quan trọng hơn, là người An Khê nên hiểu rõ vùng đất – mặc dù tài liệu chỉ ghi ông là người Bình Định nhưng sau nhiều đợt điền dã, giáo sư Andrew Hardy đã xác nhận điều này. Ngày nay chúng ta biết rằng, quãng thời gian ngắn ngủi ba năm chưa thể nói gì đến thành quả của một dự án khai hoang, buộc con người rời quê hương bản quán dưới đồng bằng lên vỡ đất chốn rừng thiêng nước độc, đầy rẫy sơn lam chướng khí. Nguyễn Đức Thăng cũng không đủ quyền lực và tài lực để làm tốt hai nhiệm vụ chính “tuyển mộ lao động di cư và khai hoang lập điền” nên kết quả dễ đến là “một số người di cư đến mà không có ai ở lại”.

Tuy thế, thất bại của dự án lần thứ nhất không làm lay chuyển ý chí của triều đình Đại Nam, nhất là chuyến thực địa của Trần Hy Tăng đã tiếp thêm hy vọng, khi nhắc lại tiềm năng của vùng đất bên bờ Tây sông Ba và khéo léo nhắc đến “dân theo đạo hiện đang quần tụ sinh sống ở đó được” – một hàm ý trực diện về một thách thức tôn giáo với triều đình, có nguy cơ trở thành thế lực hậu thuẫn người Pháp ngay trên cao nguyên nhưng cũng cho thấy khả năng bám trụ, định cư ở nơi mà dự án trước đã bất thành.
Trái với mong đợi, dự án thứ hai còn diễn ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi hơn thế khi được giao cho tú tài Đặng Duy Hanh, một người có động cơ riêng khiến sự khởi đầu đã bộc lộ dấu hiệu đầy nghi ngại, “ông ta đã chi một số tiền khổng lồ 8.000 quan cho vị trí An Khê khẩn điền sự vụ”. Sự kết hợp tính toán đầy tham vọng của cá nhân và chính sách của quốc gia đã giúp Đặng Duy Hanh và một số người liên quan tới dự án thu được rất nhiều tiền, trâu và thóc quyên góp, trong đó hai phần ba từ số thân văn, hào mục giàu có với mong mỏi sẽ được cất nhắc sau này, một chính sách hứa hẹn sẽ tạo ra cho họ một cuộc thăng tiến địa vị xã hội. Tuy nhiên, việc Đặng Duy Hanh thâu tóm đủ tài lực và quyền lực trong tay, đặc biệt đã quy tụ được nguồn tiền tại chỗ và đám có máu mặt ở địa phương nhưng vẫn không hơn người tiền nhiệm. Dự án sớm sa vào những bê bối cáo buộc tham nhũng chỉ một thời gian ngắn sau khi khởi động nên rút cục chỉ kéo dài trong hai năm.
Hai thất bại dẫn đầu có làm thay đổi ý chí của triều Nguyễn? Trên thực tế thì bản tấu của Trần Hy Tăng, trước khi viên quan này qua đời ở tuổi 38 vì sốt rét làm hao mòn thể lực, và mối đe dọa từ người Pháp ngày càng tăng khiến triều đình Huế phải lưu tâm về An Khê. Thông tin về người công giáo trên cao nguyên mà Viện Cơ mật có được vào năm 1876, khi cử sứ quan thu thập, cho thấy “ba linh mục ngoại quốc sống ở ba nơi trên cao nguyên đã ‘dụ dỗ người man’ và hàng ngàn người đi theo”. Dự án di dân khai hoang lần thứ ba được mở lại dưới sự dẫn dắt của một viên quan giàu kinh nghiệm là Phan Văn Điển, người từng làm án sát ở Bình Thuận, hải phòng sứ ở Quảng Nam và bố chánh ở Bình Thuận. Ông có trợ thủ đắc lực là Đỗ Văn Thôn, một quân binh được giao giám sát việc khai hoang.
Ba dự án di dân và khai hoang ở An Khê không phải là câu chuyện về một vùng đất biệt lập trên cao nguyên mà là câu chuyện về chính sách quốc gia và ứng xử linh hoạt của nó trong bối cảnh cấp bách, nước sôi lửa bỏng, giữa sự va đập, hỗn giao của những đế chế.
Quả thật, Phan Văn Điển đã rút ra được bài học từ hai thất bại trước và triển khai một dự án hoàn bị, không thể tốt hơn. Nhìn lại toàn bộ dự án của Phan Văn Điển, giáo sư Hardy cho rằng, ông đã thành công so với hai người tiền nhiệm ở chỗ: cải cách được hệ thống truyền tin để “gắn kết cao nguyên với bộ máy hành chính của triều đình”, biết tận dụng được sức mạnh của nhiều nguồn lực, phân bổ công việc hợp lý, và biết dựa vào cả người Thượng thông qua Đinh Thốn, “người được coi trọng trong cộng đồng người Thượng, có kinh nghiệm buôn bán ở vùng cao, nói được tiếng Việt và hiểu được cách nghĩ của người Kinh”. Nguồn tài lực mà ông có trong tay cũng dồi dào, dựa trên việc quyên nhận theo cơ chế bắt buộc và một chế độ thưởng phạt được điều chỉnh linh hoạt.
Và có lẽ, một khía cạnh thành công của dự án chính là có được Phan Văn Điển và các thuộc cấp của ông, dù “không am hiểu về cao nguyên nhưng họ đã đến nơi đó sinh sống và đích thân lãnh đạo dự án thông qua quan lại cấp dưới người bản địa”. Chỉ khi dốc sức làm việc, Phan Văn Điển mới làm được những điều mà hai dự án trước không làm được, đó là cải thiện khả năng tiếp cận cao nguyên thông qua việc xây cầu, phát quang rừng rậm ven đường để bảo vệ người qua đèo, cung cấp hạt giống, nông cụ cho người khai hoang… Và chỉ khi đó, ông mới rút ra được công thức nhọc nhằn: trên vùng đất cao chỉ có cát sỏi, cây lớn, rừng già, một người làm việc cật lực một năm mới khai được một mẫu ruộng để cày và “chi phí cho một người định cư khá cao, bình quân 120 quan (20-30 quan tiền trâu, 40-50 quan tiền nông cụ, 50 quan làm vốn)”.
Bất chấp sơn lam chướng khí, dự án của Phan Văn Điển đã thành công. Mười năm sau, khoảng 7, 8 ngàn người Kinh định cư ở An Khê, “chủ yếu là dân buôn và chăn nuôi gia súc, một sự gia tăng nhanh chóng từ 800 dân đinh với 590 hộ gia đình vào năm 1888”.
Những điều còn lại
Ba dự án di dân và khai hoang ở An Khê không phải là câu chuyện về một vùng đất biệt lập trên cao nguyên mà là câu chuyện về chính sách quốc gia và ứng xử linh hoạt của nó trong bối cảnh cấp bách, nước sôi lửa bỏng, giữa sự va đập, hỗn giao của những đế chế, Đại Nam và Pháp. Tại buổi ra mắt sách, giáo sư Nguyễn Quang Ngọc (Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN) đã nhấn mạnh vào yếu tố này, khi chỉ ra “một vùng đất như An Khê mà có tới 50 châu bản chỉ dụ triều đình, trong khi với những nơi như Hoàng Sa – Trường Sa, chúng ta chỉ thấy có khoảng 20 châu bản”. Những thay đổi chính sách và cách thức tiến hành dự án, được thể hiện rất rõ trong các châu bản cho thấy, triều đình Huế đã coi trọng An Khê đến mức nào. Từ An Khê, người ta có thể xâm nhập sang các nơi khác của Tây Nguyên, điều đã trở thành thực tế ngay vào thời điểm đó: một giáo xứ ở Kon Tum, phía Tây An Khê đã được dựng lên như một thách thức triều đình Huế.
Trong bối cảnh đặc biệt này, An Khê đã trở thành một không gian địa chính trị quan trọng cho thử nghiệm chính sách, một thử nghiệm rút cục đã đi đến hồi kết mĩ mãn, quy tụ không chỉ sức quân binh mà cả thường dân, “quân binh khẩn được 34 mẫu ruộng mới trên cao nguyên. Thường dân khẩn được 820 mẫu. Năm 1888, số dân thường định cư gồm 800 dân đinh, cùng số lượng không rõ phụ nữ, trẻ em”. Vậy là từ một nơi “đường mòn toàn dấu chân hổ”, nơi chứng kiến các chuyến đi của dân buôn và cướp đường, An Khê đã trở thành một mảnh đất màu mỡ, nơi chốn của cuộc sống thường ngày trong các thôn mới được lập nên.
Điều đáng tiếc là sau rất nhiều đổi thay xoay vần và những chồng lấn của lịch sử, câu chuyện về thử nghiệm chính sách khai hoang ở An Khê đã lùi vào dĩ vãng, thất tán và mờ nhạt. Những bài học lịch sử về kế hoạch di dân, những yếu tố quyết định thành bại của ba đợt di dân nửa cuối thế kỷ 19 không còn được biết tới… Cho đến khoảng một trăm năm sau, trước những yêu cầu mới của đất nước, kế hoạch di dân, khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới trên vùng cao, miền núi của Việt Nam đã được tiếp tục. Và khi đó, dẫu cho chính sách thời đại mới đã đem lại cho người khai hoang một số hỗ trợ nhất định thì muỗi, sốt rét, các loại bệnh đường rừng khác và môi trường khắc nghiệt cũng vẫn là thách thức đáng kể với người di cư xây dựng vùng kinh tế mới. Hệ quả là 70% trong số họ đã rời bỏ về quê hoặc chuyển đi nơi khác sau một vài năm làm việc, theo nhận xét của giáo sư Nguyễn Văn Chính (Khoa Nhân học và Tôn giáo, Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN).
Điều này khiến người ta đặt câu hỏi: sẽ thế nào nếu những bài học lịch sử về kế hoạch di dân, những yếu tố quyết định thành bại của ba đợt di dân thời Nguyễn sớm được làm sáng tỏ mà không phải chờ đến ngày hôm nay, sau trào lưu di cư xây dựng kinh tế mới 1960-1990 tới hơn 30 năm. Nhưng lịch sử không có chữ nếu, lịch sử đã diễn ra như nó vốn thế, không thể đảo ngược. Rút cuộc, cho đến khi hội đủ nhân duyên, một nhà sử học người Pháp mới có thể – từ khảo cứu những châu bản triều Nguyễn được lưu giữ trong kho lưu trữ Việt Nam, tư liệu trong kho lưu trữ nước ngoài và những chuyến điền đã thu thập, so sánh và kiểm chứng tư liệu – tái phác dựng được những chuyển động chính sách và xã hội đã định hình nên một vùng đất nửa cuối thế kỷ 19.
Sự đời vốn dĩ mênh mông, huyền diệu. Câu chuyện của An Khê có thể còn nhiều hàm ý về bài học quản trị các dự án lớn của đất nước nhưng có lẽ, gợi mở cho chúng ta cả những suy tưởng khác. Một mặt nó cho thấy, một tấc đất của Tổ quốc, dù ở chốn xa xôi, cũng quý giá đến nhường nào, khi phải trá bằng rất nhiều công sức và tính mạng của những người mở cõi như Phan Văn Điển. Mặt khác, bất chấp việc triều đình Huế không kịp hưởng thụ thành quả từ nỗ lực của Phan Văn Điển, thì cuối cùng, vùng đất màu mỡ và trù phú này đã vĩnh viễn thuộc về những cư dân của nó, như tinh thần “quan nhất thời, dân vạn đại”. □
———————-
1. Vũ Đức Liêm. “Làng xã trong vòng xoáy bạo lực của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX”. Tia Sáng. 2021
Bài đăng Tia Sáng số 24/2025
