“Năm nay sẽ về nhà ăn Tết”
Kể từ đã mấy mươi năm xa quê, câu nói ấy hầu như hàng năm được tôi lặp lại, mỗi khi những ngày cuối của tháng 12 bên ni dương lịch lụn dần, theo với mùa tuyết đổ, rồi cũng theo với trận gió thổi tuyết tan bất ngờ, cảm giác mơ hồ như có ai đến sau lưng gõ nhẹ trên vai nhắc nhở rằng bên nớ năm tháng âm lịch cũng đang nghiêng mau, Tết nay mai sắp đến
Phạm Bá Thịnh |
Cái nhà đã lơ lửng thinh không… thì “ăn Tết” ở đâu mới là nhà? Hay “ăn Tết” chỉ là một thứ mộng triệu, một ước mơ của những người xa quê?
Thật tình, hai chữ “ăn Tết” hình như đối với người xa quê có một điều chi lạ lùng, hai chữ ấy không phải đơn giản chỉ là “ăn” như ăn cơm, ăn kẹo, ăn bánh.., một khi ăn xong, thưởng thức xong, được no, được thỏa là có thể quên, bụng dạ và đầu óc thảnh thơi có thể nghĩ đến những bận bịu bổn phận này hay công danh khác. Chúng cũng không có nghĩa bóng của những thứ ăn tạp kiểu ăn gian, ăn tham như ăn hối lộ, ăn bớt, ăn xén, ăn vụng… ăn xong là phải giấu giếm hoặc phải xấu hổ, hay đi sám hối vì cảm thấy tội lỗi đã lỡ phạm vào những cuộc ăn như thế (có người sẽ mỉm cười nói thời kinh tế thị trường này ai có thì giờ đi sám hối, nhưng… đó cũng chỉ là chuyện kinh tế thị trường!). Ở mỗi thứ ăn nói trên, đối tượng ăn cụ thể, được định hình bằng hiện vật rõ ràng, dù phẩm chất ăn khác xa nhau một trời một vực, trong lúc hai chữ ăn Tết đối với người xa quê thường có những âm vang bí nhiệm kêu gọi một sự quay về, một hồi hướng hầu như không thể gọi được gọn ghẽ một tên chính xác, bởi vì chúng nói lên nhiều thứ, nhiều điều, đến nỗi nếu ta thử nói lên một điều nào là lập tức đã thấy thiếu điều kia, vừa kể xong điều này là đã thấy ngay chưa vừa, chưa đủ điều nọ… cho nên… mới gọi là ăn… Tết: ăn cả một cái Tết nhưng ăn gì nơi cái Tết ấy? Chữ Tết nghe như nhiều, nhiều lắm, nhiều đến “ăn” không hết mà lại “ăn” mấy cũng chưa vừa cho những kẻ xa quê, nó vượt lên trên mọi thứ “ăn” thường tục để đến nỗi có thể trở thành thiêng liêng như một thứ đi mà chưa đến, một kiểu hành hương…
Dĩ nhiên mỗi khi xuân về Tết đến, người xa quê nào cũng ráng “ăn một cái tết” ra hồn ngay trên mảnh đất tha phương mà mình đang sống, dù ở nơi hẻo lánh hay nơi chốn phồn hoa tấp nập, dù trong trại tị nạn, ngay cả trong ngục tù, trong căn phòng chật chội hay trong căn nhà rộng lớn, một mình hay với bạn bè đồng hương, lắm khi đầy đủ lễ nghi rình rang còn hơn ở quê nhà, cũng chợ hoa, cũng thiệp chúc Tết tưng bừng, cũng hội chợ ngày xuân, có khi cả bài chòi bài tới, bầu cua cá cọp… Và họ có thể ăn lu bu, ăn kỹ lưỡng, ăn đến nơi, đến chốn, cái gọi là “cliché” ngày Tết, đại khái như “thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh…”, và lắm khi cũng “ăn” luôn những “câu đối đỏ”, “nêu cao” ngất nghểu, “pháo nổ” giòn giã nơi những góc trời xa ngái Mỹ Âu. Chẳng thiếu một thứ nào trong những buổi chơi xuân, đón Tết ở quê người. Ấy vậy mà sao nghe như có một điều chi chưa trọn, chưa tròn, chưa tự nhiên, chưa thật, đến nỗi mỗi khi tiệc tan, trên đường về… sau tiếng cười hầu như còn đọng lại một điều chi nghẹn ngào trong cổ, có lẽ một tiếng nấc chưa thành hay một thứ gai lạnh làm rùng mình, chợt tỉnh về nỗi cô đơn trong những ngày đầu xuân… người xa quê bỗng càng nhớ Tết… Mỗi cái Tết xa quê trở nên một cái “bồng binh” dồn nỗi nhớ Tết quê hương…
Xin đừng hỏi nhớ điều chi nơi Tết quê hương ấy. Một nhánh mai? Vị mứt gừng cay lưỡi trong cơn lạnh mưa xuân, hoa hải đường trước sân hay cành đào trước ngõ? Đòn bánh chưng bánh tét thơm mùi nếp mới? Hay nhớ tuổi thanh xuân? Hay tiếng chào năm mới? Tết là một tiếng vọng từ trong lòng đất sinh thành thoát ra, chập chờn như một nhắc nhở quay về của người xa quê. Có lẽ tính vô thường của thời gian, sự đổi thay cũ mới, sự hóa nhập từ đông sang xuân sẽ dễ dàng được chịu đựng, được cảm nhận vẹn toàn, được cảm khái hoan hỉ khi chúng xảy ra chính trong không gian sống của con người, bứng ra nơi khác, vô thường hóa ra cô đơn, cũ mới trở nên khắc khoải, và mùa xuân hiển hiện lại làm cho kẻ tha hương càng thấy như mình đang ngồi bên vệ đường trông ngóng xuân sang mà chưa có lần nhập cuộc. Đáng thương là sự ngóng xuân nơi đất khách ấy, nhất là những kẻ lẻ loi- mà ai không một lần lẻ loi trong khi lênh đênh trên đất khách?
Độc tại vị hương vi dị khách
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân
Mỗi khi xuân về tết đến, làm người khách lạ nơi chốn lạ thật khó làm sao! Những lúc ấy thấy thương thân mình gấp bội và nỗi ao ước “năm sau về nhà ăn Tết” trở thành một hối thúc tự nhiên, bỏ vào cái bồng binh năm tháng, nhốt nó lại nhiều năm cho đến khi thành hai câu đốI dán lên trên cột ba ngày Tết, đóng đinh nỗi nhớ xuân quê, mà cụ nghè Chu Mạnh Trinh có lần đã viết cho một người khách lưu lạc:
Vọng xuân xuân khả liên, lĩnh thụ trùng đà thiên lý mục,
Dục qui qui vị đắc, cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Trông xuân xuân đáng thương, cây núi ngăn đôi nghìn dặm mắt,
Muốn về về chửa được, con thuyền buộc một mối tình nhà)
Bao nhiêu năm ấm ức nó có thể trở thành tâm bệnh. Cho nên phải đập vỡ bồng binh dồn và nhốt nhớ Tết quê hương, tôi khăn gói lên đường tìm về cái Tết nhớ mấy mươi năm. Cuộc đi còn chưa đến… Tết chưa về, bỗng nhiên ngập ngừng trong dòng người ào ạt như thác đổ nơi thành phố một thời là hòn ngọc viễn đông, tự hỏi mình đi VỀ đâu? Có phải Tết năm nay là cái Tết ở nhà?
Câu trả lời nghe xa, như tôi đang thấy mình còn lạ.
Chỉ biết một điều, tôi sẽ trở về dòng sông ấy, ngắm núi mùa xuân trong lòng sông, thả con thuyền buộc mối tình nhà về bến, để trả lời một câu thơ hầu như là định mệnh của kẻ tha hương: “Xuân lai giang thượng kỷ nhân hoàn” (Xuân tới trên sông đã mấy người trở về) rằng đã có người ĐANG về… ăn… Tết
Nguồn tin: Tia Sáng