Nên bài xích lối văn không thành thực
Cuối năm 1935, trong nội cung triều đình Huế có một sự kiện : đám tang bà nội vua Bảo Đại; nhân đấy, giới quan chức Nam triều tôn dâng khá nhiều bài phúng viếng. Phan Khôi lúc này là chủ bút báo Tràng an đã chọn đăng trên báo mình một trong số những bài này và sau đó đăng liền hai kì bài phê bình của mình. Bài báo đã gây phản ứng rất mạnh trong giới quan chức triều Nguyễn và khiến cho không lâu sau, đã phải thôi chân chủ bút tờ báo này. Nhân kỉ niệm 120 năm năm sinh của Phan Khôi, chúng tôi xin được đăng lại bài báo này. Mong rằng nó sẽ giúp bạn đọc hiểu được phần nào tính cách và những quan niệm riêng của ông về nghề viết văn, làm báo. Bài viết được lấy từ sưu tập của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Trong văn bản in lại, chúng tôi lược bớt một số đoạn.
Và văn học là để biểu hiện nhân sanh và phê bình nhân sanh. Một nền văn học có giá trị, chẳng khác gì hơn là sự biểu hiện và sự phê bình của nó được đúng. Mà muốn như thế thì trong văn học phải chuộng sự thành thực làm đầu. Trái lại, không chuộng thành thực thì trong sự biểu hiện và phê bình đều là giả dối sai lầm cả, cái văn học ấy đã đành là không tiến bộ mà cũng trở nên vô giá trị nữa.
Tôi từng quan sát cái hiện trạng văn học xứ ta từ trước đến giờ, thấy được chỗ trở ngại ấy nên đã nhiều lần bàn với anh em làng văn rằng chúng ta cần phải đề xướng cái chủ nghĩa thành thực trong văn học mới được. Trong lúc dự bị làm công việc ấy, tình cờ gặp một dịp tốt khiến tôi có thể đem ý đó phát biểu ra đây.
Trong phụ trương Tràng an số 86 vừa rồi có đăng bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch. Các bạn đọc đối với bài văn ấy, những người có óc cũ có lẽ sẽ hoan nghinh, nhưng những người có tư tưởng mới hẳn là không chịu nó cũng như chúng tôi không chịu nó. Đã không chịu nó mà còn đem đăng lên báo, chẳng qua chúng tôi muốn có cớ để phát luận hôm nay.
Theo lối văn chương cũ mà nói thì bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch đó không phải là hay nhưng cũng không đến nỗi dở. Nó là một bài văn sàng sàng, “vô cửu vô dự”. Nhưng khi phê bình nó ở đây, chúng tôi không kể đến sự hay dở mà chỉ kể đến chỗ nó có đứng được hay không đứng được mà thôi. Nghĩa là chúng tôi không nói đến phương diện nghệ thuật của nó mà chỉ nói đến cái tánh chất của bài văn.
Làm một cái kết luận sớm ở đây, tôi muốn nói ngay rằng bài văn của ông Nguyễn Mộng Thạch không đứng được, vì nó đeo một cái tánh chất hư ngụy, không thành thực.
(…) Thế nào là gọi bài văn ấy là không thành thực?
Trước hết nói về cách dùng chữ. Trong bài văn ấy tác giả chỉ dùng những chữ cho đẹp cho kêu chớ không cốt ở nghĩa lý có đúng cùng chăng. (…) Tác giả vì ham những chữ cho đẹp, đối nhau cho cân mà đã đặt ra những câu phạm tội nặng hơn, tức là cái tội vô nghĩa. Ấy là như câu “bể ái lưng vơi thành sầu xô đổ” thì còn có nghĩa gì? Xét lại bản ý của tác giả là cốt đem hai cái thành ngữ “bể ái” và “thành sầu” để đối với nhau nghe cho rột rạt mà thôi.
Thứ đến những chỗ kể đức tánh của đức Thánh Cung, nghe ra cũng vô vị nữa. Có lẽ tác giả tự cho rằng ca tụng một bà vua như vậy là đắc thể, nhưng theo chúng tôi tưởng thì thật chẳng có chút giá trị nào. Như những câu:“Nết đất từ hiền, tư trời nhân hậu… Vẻ đoan trang ít kẻ dám tày, gương trinh liệt lâu ngày còn rõ” thì dùng mà hình dung cái đức tánh của bà vua nào chẳng được, hà tất đức Thánh Cung?
Theo cái quan niệm về văn nghệ của chúng tôi, khi muốn biểu hiện cái đức tánh bình sanh của một người nào thì phải lấy những cái đặc tánh của người ấy mà biểu hiện. Khi nhận thấy người ấy không có cái đặc tánh gì hoặc có mà mình không nhận thấy được thì thà đừng biểu hiện còn hơn. Như thế, sự biểu hiện của văn nghệ mới có giá trị.
Còn tác giả đây hình như không nghĩ như chúng tôi vậy. Tác giả không cần nhận thấy đức Thánh Cung có đặc tánh gì cả, khi cầm bút tán dương ngài thì cứ khuân bao nhiêu những hình dung từ tốt cho đàn bà mà để vào đấy thôi. (…) Cái đức ngài không thể có mà nhà văn trở đem gán cho ngài, điều ấy chẳng những là không thực mà người ta còn có thể gọi là “hót nhảm” được nữa!
Ông Nguyễn Mộng Thạch hẳn là một nhà nho, ông đã nhiễm cái thói ca tụng đế vương trong kinh điển. Kinh Thư ca tụng vua Nghiêu không còn sót một cái đức tốt nào là không có: khâm, minh, văn, tứ, doãn, cung, khắc nhương, rồi sau đến nải thánh, nải thần, nải võ, nải văn. Cũng bới những sự không thành thực ấy tràn ngập trong tư triều văn học nước ta, thành thử từ xưa đến nay các nhà văn đều mắc trong vòng giả dối mà không tự biết và cũng không tự thoát ra được. Kỳ thực, vua Nghiêu dù là người tốt cũng không có thể gồm đủ cả các tánh tốt của loài người như Kinh Thư nói; đức Thánh Cung dù có đức tánh hơn người cũng không phải là mọi nết mọi hay và hay đến cả cái không thể có được như ông Nguyễn Mộng Thạch tán dương đâu.
Thứ đến những chỗ kể công nghiệp của đức Thánh Cung, khiến kẻ đọc, ai có lương tâm, đọc đến đều phải lấy làm hổ thẹn, vì theo người quân tử, điều không có mà mạo nhận là có, chẳng gì đáng ngượng bằng.
(…)
Cái nghề hễ nói dóc quá rồi không tài nào giữ được, có khi chính mình lại mâu thuẫn với mình. Ở đây tác giả là ông Nguyễn Mộng Thạch chính đã phạm vào sự đáng kiêng kỵ ấy.
Tiếp một câu nữa cũng kể công nghiệp đức Thánh Cung mà cũng không đúng lấy một chút nào:
“Từ năm trước ngự du ngoại quốc, khéo léo thay quyền nội trị, lời êm lẽ thuận, đình thần ai nấy khâm tuân;
Đến lúc nay giá phản bản triều, vững vàng đáng vị mẫu nghi, đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đều từ mộ.”
Đức Khải Định cùng đức Bảo Đại đều có ngự du ngoại quốc, nhưng đây chắc là nói về đức Bảo Đại. Theo thực sự, khi đức Bảo Đại ở bên Tây bảy tám năm, đức Thánh Cung ở nhà chẳng hề có khi nào “thay quyền nội trị” hết. Vì bản triều từ xưa có điều răn: “Mẫu hậu không được lâm triều thính chánh”, điều răn ấy lợi cho người ta thì bao giờ người ta cũng giữ. Huống chi gần nửa thế kỷ nay, quyền nội trị của nước Đại Nam là xứ Trung Kỳ này dần dần nắm cả trong tay chánh phủ bảo hộ; lúc Hoàng thượng ở bên Pháp, ở triều tuy có đặt thêm ông Thân thần nhiếp chánh, kỳ thực ông ấy chẳng có quyền gì hết mà quyền về Toà Khâm. Rất đỗi người đàn ông có danh phận đường đường đó mà còn chẳng thay quyền nội trị được thay, có đâu đến người đàn bà bệnh hoạn, nằm chờ số mạng ở chốn thâm cung?
Đến như “đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đề từ mộ”, sự ấy, muốn kiếm lấy một vài điều để chứng thực, e cũng kiếm không ra.
Cái sự nhà vua làm cho dân cảm ơn và ái mộ, chỉ duy có khi nào đủ quyền làm những việc như đại xá, giảm thuế, tha xâu là việc các vua ta hay làm từ triều Tự Đức trở về trước. Chứ còn hiện nay, chính Hoàng thượng cũng không có quyền làm những việc ấy; đến một bà mẫu hậu lại càng không có quyền làm, thì chẳng biết lấy gì mà đức thấm ơn nhuần? Chúng tôi vẫn biết mỗi khi tấn tôn huy hiệu đức Thánh Cung, đều có ban ân chiếu; những cái ân chiếu ấy muốn kể là đức là ơn cũng được. Nhưng khắp mười hai tỉnh chỉ có một số rất ít người, hoặc cha mẹ già của các ấn quan, hoặc người già, mụ goá được phong được thưởng, thì làm sao lại nói “thiên hạ thảy đều từ mộ” được, cho dù chữ “thiên hạ” ấy là khép nhỏ lại nội một nước Nam?
Người nào đã có cái kiến giải thành thực như chúng tôi vừa nói trên đó mà đọc đến những câu: “Hạc đã về nơi hoa biểu, để dân đen con đỏ luống trông… Nhớ nghĩa chung thiên, người ai chẳng đem lòng quyến chú?” thì cũng phải thẹn thầm, vì thấy mình cũng là dân đen con đỏ đây, cũng là người nước Nam đây mà chẳng hề có cái cảm tưởng thiết tha như tác giả nói, trong khi nghe tin đức Khôn Nguyên Thái hoàng Thái hậu thăng hà!
Thật, chúng tôi là người làm báo ở dưới chân liễn cốc mà cũng duy đến sau lúc được tin buồn ấy mới nghe người ta kể đến cái nhân cách của đức Thánh Cung ra sao. Người ta nói ngài có biết chữ Hán ít nhiều, thông hiểu việc bản triều lắm, và mỗi khi có ban phán điều gì, lời lẽ rất là đứng đắn. Cái nhân cách ấy vẫn đủ sanh lòng khâm kính của chúng tôi cũng như chúng tôi khâm kính một người khác có cái nhân cách ấy…
Theo như lời những người đi coi đám từ trong Nội ra nói những lúc tế điện, lễ thần, xướng cử ai, Hoàng thượng đều không hề khóc. Có kẻ bảo như thế là nguội lạnh quá và trái lễ. Nhưng chúng tôi cho Hoàng thượng làm vậy là theo tánh tự nhiên của loài người. Chúng tôi chắc Hoàng thượng có lòng thương bà nội cũng như mọi người. Có điều đã già mà chết là sự thường, cái chết không có tức tối gì mà làm cho phải khóc thì không khóc được. Con nhà nho gặp đại tang, mỗi lúc xướng cử ai thì phải chiếu lệ ô hô hay hu hu ba tiếng, ấy là sự giả dối, chứ lễ gì? Nhắc câu chuyện này vào cho biết chỗ chí thân mà còn không khóc được thay, huống chi thần dân là người ngoài mà cho có được sự từ mộ ai bi như tác giả nói: “Muôn dặm non sầu, ngoài bể bạc tiếng đờn câm vỗ”?
Cả bài văn đều là không thành thực. Nó không đứng được. Làm văn như thế thà đừng làm còn hơn.
Nhân đây tôi sẽ viết thêm nhiều bài nữa để cổ động cái chủ nghĩa thành thực trong văn học.
Nguồn: Tràng an, Huế, s. 88 (31/12/1935); s. 89 (7/1/1936).
———-
ẢNH: Phan Khôi tại Lễ kỷ niệm Lỗ Tấn ở Bắc Kinh năm 1956