Ngẫm lại về Florence Foster Jenkins

Từ câu chuyện của Foster Jenkins, chúng ta có thể học được rất nhiều về cách trở thành những con người tốt hơn với nhau, về cách sống chân thật bất chấp những lời chỉ trích gay gắt của khán giả bên ngoài sân khấu, và cách chúng ta có thể vượt qua sự nhạo báng, dù thi thoảng nó dường như quá sức chịu đựng đến mức muốn bỏ cuộc, có lẽ sẽ dễ dàng hơn.

Bộ phim Florence Foster Jenkins năm 2016 của Stephen Frears.

Bộ phim Florence Foster Jenkins năm 2016 của Stephen Frears là một thành công tức thì trên toàn thế giới, cả về mặt phê bình lẫn công chúng. Đây là một trong những dự án phim tiểu sử nổi tiếng nhất trong lịch sử Hollywood gần đây, đề cập đến bối cảnh âm nhạc trước khi Maria của Pablo Larraín ra mắt. Bộ phim kể về những kỳ công của Florence Foster Jenkins (1868-1944), một phụ nữ thượng lưu và ca sĩ opera nghiệp dư người Mỹ. Jenkins nổi tiếng (và có thể cho là tai tiếng) nhờ những màn trình diễn mang phong cách riêng nơi giọng hát của bà dường như cố tình lệch tông nhưng luôn tạo ra những hình thái riêng, thuôn dài, méo mó mà vẫn đẹp.

Bị một số người coi là “ca sĩ tệ nhất thế giới” nhưng lại được những người khác nồng nhiệt khen ngợi vì lòng quyết tâm, sự kiên trì và tình yêu dành cho nghệ thuật ngay cả khi khả năng điêu luyện của bà còn hạn chế, Jenkins không hề là một người hâm mộ hời hợt của opera và thanh nhạc cổ điển. Tình yêu chân thành bà dành cho nghệ thuật cũng nhiều như những ảo tưởng bà có về tài năng của mình. Tuy nhiên, chuyển thể câu chuyện này lên màn ảnh rộng như thế nào lại là vấn đề hoàn toàn khác. Nhưng đó là nhiệm vụ mà biên kịch Nicholas Martin và giọng nữ cao Julia Kogan đã nỗ lực hoàn thành. Một biên kịch và một ca sĩ opera: quả là sự kết hợp hoàn hảo!

Dựa trên chuyện có thật? 

Câu chuyện được kể trong phim Florence Foster Jenkins bắt đầu vào năm 1944 khi Jenkins đã kết hôn với St. Clair Bayfield, một diễn viên người Anh. Sau khi xem màn trình diễn của Lily Pons, giọng nữ cao màu sắc người Mỹ gốc Pháp, Jenkins quyết tâm theo đuổi opera và nhanh chóng thuê nghệ sĩ piano Cosmé McMoon cùng huấn luyện viên thanh nhạc Carlos Edwards của Nhà hát Opera Metropolitan để giúp đào tạo mình. Chẳng bao lâu sau, một buổi độc diễn riêng được tổ chức tại Câu lạc bộ Verdi. Đây là một dự án tự tài trợ, và buổi độc diễn của bà nhận được vài phản ứng chế giễu trong khi những người khác vẫn giữ vẻ ngoài nghiêm nghị. Dẫu các bài phê bình về buổi diễn đó rất tích cực và dẫn đến việc hợp tác với hãng thu âm Melotone Records, McMoon cuối cùng cũng nhận ra sự kém cỏi về âm nhạc của Jenkins. Dù vậy Jenkins và McMoon vẫn cùng nhau sáng tác vài bài hát. Chẳng bao lâu sau, Jenkins đặt thuê khán phòng Carnegie Hall để tổ chức buổi biểu diễn ra mắt. Buổi hòa nhạc này quy tụ những nghệ sĩ ưu tú, từ đại chúng đến cổ điển, và đúng như dự đoán, màn trình diễn tệ khủng khiếp. Mặc dù được hối lộ, nhà phê bình Earl Wilson đã viết một bài đánh giá tệ hại về buổi diễn. Dẫu McMoon cố gắng ngăn Jenkins đọc nó, cuối cùng bà cũng tìm thấy một bản in và trong lúc đọc, bà ngã quỵ rồi sau đó chết trên giường.


Với Jenkins, chúng ta buộc phải đối mặt với quan niệm rằng opera chỉ đơn giản là câu chuyện về sự hiện sinh của con người.

Bao nhiêu là sự thật? Bao nhiêu là dàn dựng? Nhìn chung, mọi thứ mà bộ phim mô tả, trừ một số đoạn hội thoại và cảnh nhất định, đều là thật. Bộ phim tuân theo trình tự thời gian nhìn chung là chính xác về cuộc đời Jenkins, mặc dù một số chi tiết cụ thể đã được đơn giản hóa cho điện ảnh. Ví dụ, vào năm 1909, Jenkins đã bắt đầu mối quan hệ lâu dài với Bayfield, nhưng đây không phải là hôn nhân thực sự mà thay vào đó là việc chung sống lâu dài cho đến khi bà qua đời năm 1944. Jenkins ngoài đời, sau khi nhận được khoản thừa kế lớn từ người cha mới mất năm 1909, đã chuyển đến thành phố New York để theo đuổi ước mơ tạo dựng tên tuổi trên sân khấu. Bà thành lập Câu lạc bộ Verdi vào năm 1912 như một phương tiện để đột nhập vào giới thượng lưu New York, mặc dù bà đã tổ chức các buổi tiệc sân khấu xa hoa, nơi bà luôn tự hóa trang vào vai chính. Không rõ Jenkins ngoài đời đã bắt đầu khám phá tình yêu âm nhạc như thế nào và khi nào. Nhờ địa vị ngày càng cao trong giới thượng lưu New York và sự giàu sang của bản thân, bà bầu bạn cùng những tên tuổi lớn trong giới nhạc, gồm Edwin McArthur và những người khó có thể cưỡng lại sức hấp dẫn của âm nhạc. Mùa xuân năm 1912, bà bắt đầu sự nghiệp biểu diễn hòa nhạc của mình tại Manhattan.

Bộ phim lấy bối cảnh năm 1944, năm Jenkins ra mắt tại Carnegie Hall. Điều này diễn ra sau ít nhất bảy năm chinh phục các tiết mục coloratura khó nhằn với các mức độ thành công khác nhau. Trong đêm diễn này, ở tuổi 76, bà đã biểu diễn liên tiếp nhiều aria khó, từ Queen of the Night, Adele đến Lakme. Buổi hòa nhạc có sự tham dự của những tên tuổi lớn trong lĩnh vực này, từ Gian Carlo Menotti, Lily Pons và Marge Champion, đến Cole Porter, Kitty Carlisle và Alix Williamson. Các bài phê bình gồm nhiều loại từ điềm đạm, cay độc, đến ác ý rõ ràng, và xét trên nhiều khía cạnh, sự nghiệp ca hát của bà đã đạt đến đỉnh cao và kết thúc chỉ trong một đêm. Cách bộ phim khắc họa cái chết của bà không hoàn toàn chính xác. Thực tế là bà bị đột quỵ khi đang dạo quanh cửa hiệu âm nhạc của G. Schirmer ở thành phố New York và qua đời một tháng sau đó tại nhà riêng. Điều thú vị là Bayfield biết trước rằng màn trình diễn của Jenkins sẽ rất tệ và kết thúc bằng một biến cố bi thảm nào đó, thế nhưng ông không ngăn cản người bạn đời làm điều bà yêu thích.

Opera làm bối cảnh cho điều lớn lao hơn

Một động lực khác trong bộ phim có thể dễ dàng được nhận thấy là cách opera trở thành bối cảnh cho những cuộc đàm luận rộng lớn hơn và sâu sắc hơn về bản chất con người và những trở ngại để sống đúng với con người mình. Theo như chúng ta biết, Jenkins không hề giả vờ yêu opera: tình yêu này xuất phát từ một nơi rất thực. Nơi này, bất chấp sự chế giễu và chỉ trích gay gắt từ bên ngoài, đã từ lâu là nơi không thể chạm tới. Khi ảo tưởng đẹp đẽ này cuối cùng bị phá vỡ, bà thấy không thể sống tiếp nữa. Như nhà viết kịch người Mỹ Albert Innaurato đã viết, “Bà ấy compos mentis [tiếng Latin: có trí óc minh mẫn], chứ không phải là một kẻ mất trí. Bà ấy là một cá nhân rất đúng mực và phức tạp”.

Foster Jenkins là một cá nhân rất đúng mực và phức tạp.

Giám đốc đoàn opera La Gran Scena, Ira Siff, coi các màn trình diễn của bà là những tác phẩm thiên tài kiểu khác, nơi bà “lệch khỏi âm nhạc nguyên bản, và làm những điều sâu sắc và bản năng bằng giọng hát của mình, nhưng theo một cách méo mó khủng khiếp”. Có thể màn trình diễn của bà thực sự tệ – nhưng có lẽ, chỉ có lẽ thôi, có thứ gì đó trong cách hát nghịch tai của Jenkins đã chạm đến một hợp âm sâu sắc hơn thứ mà âm nhạc thuận tai làm được. Đó là điều tôi nghĩ đã thực sự xảy ra. Với Jenkins, chúng ta buộc phải đối mặt với quan niệm rằng opera chỉ đơn giản là câu chuyện về sự hiện sinh của con người. Chúng ta đã nhầm liên tưởng điều này với vẻ đẹp thuận tai trong khi thực tế nó chưa bao giờ bắt đầu một cách thuận tai. Thay vào đó, nó tàn bạo, thô ráp, nghịch tai và chói gắt. Chúng ta phải đón nhận tiếng gọi nguyên thủy của âm thanh tự nhiên này và quay trở lại thời kỳ mà opera là sự thể hiện cảm xúc thô sơ và không bị kiểm soát của con người hơn là cách làm điệu bộ trau chuốt. Sự chân thật theo bản năng trong âm thanh của Jenkins chính là thứ đã khiến tất cả những ai nghe bà hát dễ chạnh lòng đến vậy.


“Chúng ta sẽ không bao giờ có thể hiểu hết được bà trong vẻ đẹp tự do trọn vẹn, và sẽ không bao giờ nếm được niềm vui đích thực mà bà mang đến cho khán giả”. (Nhà văn Darryl W. Bullock)

Như Darryl W. Bullock đã viết trong cuốn sách xuất bản năm 2016, Florence Foster Jenkins: Câu chuyện có thật về ca sĩ tệ nhất thế giới [Florence Foster Jenkins: The true story of the world’s worst singer], bà không phải là một fan cuồng opera hạng hai mà là một người yêu nghề tận tụy bất chấp những thiếu sót về mặt cá nhân lẫn kỹ thuật. Như ông viết, “Những người biết bà… đều khăng khăng rằng bà hoàn toàn chân thành tin chắc mình thực sự có năng khiếu, và rằng diva gây choáng váng này không có ý thức, một cách ngây thơ, về sự thiếu tài năng rõ rệt của mình.” Từ câu chuyện của bà, chúng ta có thể học được rất nhiều về cách trở thành những con người tốt hơn với nhau, về cách sống chân thật bất chấp những lời chỉ trích gay gắt của khán giả bên ngoài sân khấu, và cách chúng ta có thể vượt qua sự nhạo báng, dù thi thoảng nó dường như quá sức chịu đựng đến mức muốn bỏ cuộc, có lẽ sẽ dễ dàng hơn. Điều hấp dẫn độc đáo ở Jenkins là cách bà chấp nhận, dù chỉ bằng ảo tưởng, những thiếu sót của mình và mong muốn chia sẻ niềm vui chân thành với người khác và làm họ hạnh phúc. Bà thực sự muốn tôn vinh việc được sống và sáng tạo nghệ thuật cùng những người bà yêu thương. Tóm lại, như Bullock đã tóm gọn, “câu chuyện của bà là câu chuyện về chiến thắng trước nghịch cảnh, về lòng dũng cảm và sự tin chắc, và trên hết là về niềm tin rằng bằng sự cống hiến và cam kết (và cùng với rất nhiều tiền), người ta có thể đạt được bất cứ điều gì.”

Xét trên nhiều khía cạnh, bộ phim đã làm rất tốt việc nêu lập luận rằng opera chỉ là phông nền cho chính cuộc sống: cuộc sống và tất cả những trở ngại được đặt trên hành trình thực hiện mục đích của chúng ta, bất kể mục đích đó có thể kỳ khôi hay mơ hồ đến đâu. Đúng là Jenkins là một ca sĩ kém cỏi, nhưng vấn đề thực sự không phải ở âm nhạc hay opera. Vấn đề ở việc phục vụ khách mời và công chúng bằng chính niềm vui cuộc sống. “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể hiểu hết được bà trong vẻ đẹp tự do trọn vẹn, và sẽ không bao giờ nếm được niềm vui đích thực mà bà mang đến cho khán giả”, Bullock viết. Điều chúng ta có thể là cảm nhận đôi chút tình yêu thương dành cho người khác là như thế nào khi ta sống vị tha, trung thực, cởi mở, không sợ hãi, không e dè và không lo lắng về những gì người khác có thể nghĩ. Jenkins là một bậc thầy về cách sống chân thật. Bộ phim cho phép opera kể câu chuyện đối mặt với bóng tối của bản thân và vượt qua chúng.□

Ngọc Anh dịch

Nguồn: https://operawire.com/opera-meets-film-a-second-look-at-stephen-frears-florence-foster-jenkins/

————

Về chứng điếc âm (theo Oliver Sacks, Musicophilia – Tales of Music and the Brain)

Nhiều người trong chúng ta không thể hát theo hay huýt sáo theo một giai điệu, dù điều khác thường là chúng ta rất ý thức về chuyện này – chúng ta không mắc một “chứng mất khả năng âm nhạc” [amusia]. Nhưng chứng điếc âm [tone deafness] thực sự có lẽ hiện diện trong năm phần trăm dân số và người mắc một “chứng mất khả năng âm nhạc” có thể bị lạc giọng mà không nhận ra điều đó hay không thể nhận ra việc người khác hát lạc giọng.

Đôi khi chứng điếc âm có thể hết sức nặng. Tôi thường có mặt tại một thánh đường nhỏ nơi thuê một người điều khiển ca đoàn có thể phang ra những nốt sai đến chói tai, đôi khi một quãng ba hay một quãng tám so với chỗ lẽ ra ông phải hát. Đặc biệt là ông tưởng mình là một người ngâm tụng, và sẽ lao vào các cuộc du ngoạn bằng âm thanh trau chuốt thuộc loại đòi hỏi một tai nghe rất tốt, nhưng ông sẽ trở lên lạc lối hoàn toàn trong đó. Khi tôi phàn nàn riêng với vị giáo sĩ về lối hát của người điều khiển ca đoàn một ngày nọ, người ta bảo tôi rằng ông ấy là người cực kỳ mộ đạo và rằng ông ấy hát tốt hết mức. Tôi bảo rằng mình không nghi ngờ gì điều này nhưng người ta không thể có một người điều khiển ca đoàn mắc chứng điếc âm; với bất cứ ai có khiếu nhạc việc này ná ná như việc có một nhà phẫu thuật vụng về.

Florence Foster Jenkins, một giọng nữ cao màu sắc hấp dẫn khán giả mua sạch vé tới phòng hòa nhạc Carnegie Hall vào thời bà, coi mình là một ca sĩ lớn và cố gắng vượt qua các aria khó nhất trong opera, các aria đòi hỏi một tai nghe hoàn mỹ cũng như âm vực khác thường. Nhưng bà sẽ hát các nốt sai một cách vô cùng cay đắng, thậm chí một cách thất thanh mà (hình như) không nhận ra rằng mình đang hát thế. Cảm giác của bà về tiết tấu cũng kinh khủng – nhưng khán giả tiếp tục lũ lượt kéo đến các buổi hòa nhạc của bà, những buổi luôn đề cao nghệ thuật sân khấu lớn và nhiều thay đổi phục trang. Không rõ những người hâm mộ tận tình với bà bất chấp việc bà thiếu khiếu nhạc hay là vì sự thiếu hụt đó. 

—————–

Bài đăng Tia Sáng số 16/2025

Tác giả

(Visited 11 times, 10 visits today)