Người già Việt Nam: Ở đâu trong một thế giới đang thay đổi? 

Cuộc sống hiện đại gấp gáp, liên tục đổi thay và vô vàn bất định đang đặt người già Việt Nam vào một vị thế dễ bị tổn thương.


“Mẹ già như chuối chín cây…”

Ảnh: Shutterstock

Vào đầu tháng 9/2025, rất nhiều người Việt Nam bùng nổ phẫn nộ trước câu chuyện mà truyền thông Việt Nam đề cập tới. Một đường dây lừa đảo qua điện thoại, gồm hàng trăm người đương ở độ tuổi sung sức lao động, sử dụng hiểu biết về mạng viễn thông và phần mềm internet kết hợp với mánh khóe tưởng như đã cũ như tư vấn tặng quà, khuyến mại quay thưởng hay mời chào mua sản phẩm bảo vệ sức khỏe…, để nhắm đến “những người già, thiếu thông tin, không am hiểu về công nghệ, yếu thế, không có thu nhập hoặc thu nhập thấp” (Tuổi trẻ).

Dạng lừa đảo này, cũng từng được bóc trần một cách đầy ám ảnh trong series phim truyền hình Taxi driver 2 (Hàn Quốc), nhìn chung đã tước đoạt, từ đáy túi của rất nhiều người già, các món tiền ‘bóp mồm bóp miệng’ tích cóp dưỡng già, các khoản thu nhập ít ỏi sau cả cuộc đời lao động trong những bối cảnh xã hội chẳng dễ dàng gì. 

Tuy vậy, cơn hả dạ về việc những kẻ lừa đảo bị khởi tố sớm nhường chỗ cho những câu hỏi trăn trở: tại sao chúng đang tâm nhắm vào những người yếu thế? tại sao người già lại dễ bị mắc bẫy? tại sao những người thường một đồng mua miếng quà tấm bánh còn ngại ngần đắt đỏ nhưng lại sẵn sàng mở túi lấy hàng triệu, chục triệu để mua về những sản phẩm ất ơ? tại sao ông bà bố mẹ mình, đôi khi không tin tưởng con cái cháu chắt ruột rà nhưng lại dễ đặt cả tâm tình vào kẻ lạ chỉ sau mấy câu chào hỏi mùi mẫn? …

“Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam khá cao, không khác gì nước khác nhưng lại mất đi 5,8 năm đến gần 6 năm cho bệnh tật, nghĩa là ¼ thời gian kể từ ngưỡng 60 tuổi trở đi, người già thường phải sống với bệnh tật”. (GS. Giang Thanh Long)

Có thể đâu đó trong các không gian thảo luận lớn nhỏ, từ quán nước vỉa hè đến mạng xã hội, cũng hiển thị vài đáp án cho các câu hỏi này nhưng những gì đằng sau những đáp án đó là cả một tình thế đầy khó khăn mà người già Việt Nam đang phải tự đối diện. 

“… Khỏe đâu đến già”

Những gì chúng ta biết về người già Việt Nam hiện tại, đó là sống thọ nhưng không sống khỏe, bất chấp việc hơn 95% người già được cấp thẻ bảo hiểm y tế. “Dù khẩu hiệu của chúng ta là phòng bệnh hơn chữa bệnh nhưng thực tế là chữa bệnh hơn phòng bệnh. Sẽ phải chuẩn bị rất căn cơ trong nhiều năm, trong một quá trình đầy đủ để chúng ta có thể giống như người Nhật là sống thọ và khỏe, có thể quay lại đóng góp cho xã hội”, GS. Giang Thanh Long, một nhà kinh tế học về dân số và chính sách xã hội ở ĐH Kinh tế quốc dân, nói. 

Người Việt Nam ngày một sống thọ hơn và do đó, quan điểm “thất thập cổ lai hy” (70 tuổi xưa nay hiếm) bỗng chốc đã trở nên lạc hậu, sau mấy chục năm. Nỗ lực nâng cao tỉ lệ người già được hưởng bảo hiểm y tế và được bảo hiểm chi trả chi phí chữa bệnh, cũng đóng góp không nhỏ vào quá trình đó. Con số nói thật nhưng cũng ẩn những chiều mà nếu chỉ phóng chiếu qua cái lạc quan bề ngoài sẽ không thể nắm bắt được hết, nhất là khi không được bóc tách và so sánh. “Tính bình quân số năm bị bệnh trên số năm sống thọ của người Nhật rất thấp, chỉ có vài phần trăm, còn Việt Nam là 25%. Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam mình khá cao, không khác gì nước khác nhưng lại mất đi 5,8 năm đến gần 6 năm cho bệnh tật, nghĩa là ¼ thời gian kể từ ngưỡng 60 tuổi trở đi, người già thường phải sống với bệnh tật”, GS. Giang Thanh Long phân tích. “Top năm nhóm bệnh không truyền nhiễm như huyết áp cao, tim mạch, xương khớp… của người già sống ở nông thôn và  thành thị, khám chữa nội trú và ngoại trú đều tương tự nhau”.  

Ừ thì “khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già”, dân gian đã đúc kết như vậy nhưng chẳng lẽ sống trong một xã hội đầy đủ điều kiện vật chất hơn, điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn lại không thể giúp người lớn tuổi có được một quãng thời gian về chiều yên ả hơn? Trên thực tế, một trong những kẻ thù đối với sức khỏe của người già Việt Nam là các bệnh mãn tính, bệnh không truyền nhiễm (NCD). Theo thông tin mới nhất từ Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tại Việt Nam, các ca bệnh không truyền nhiễm là nguyên nhân gây ra 80% số ca tử vong, bao gồm các căn bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, tim mạch, xương khớp – một xu hướng ngày một gia tăng khi vào năm 2012, con số này chỉ mới ở mức 73%, theo số liệu của Bộ Y tế.  Nếu tính riêng từ năm 2015 đến năm 2021, tỷ lệ mắc bệnh tăng huyết áp đã tăng lên khi cứ 5 người thì một người mắc đến 4 người thì một người mắc, tương tự với tiểu đường từ 24 người có một người mắc thì cứ 14 người có một người mắc 1. “Đây là những căn bệnh có thể hạ gục con người bất cứ lúc nào trong khi chi phí điều trị lại ngày càng cao”, GS. Giang Thanh Long chỉ ra cái hệ quả thấy rõ của bệnh không truyền nhiễm, khi đánh vào túi tiền người già và gia đình. Dưới con mắt của những nhà kinh tế học, gánh nặng bệnh tật không chỉ là nguy cơ tử vong hay khuyết tật chờ chực mà luôn đi kèm với bài toán chi phí, thậm chí là gánh nặng chi phí nếu là ung thư. 

Con người thường bình đẳng trước bệnh tật, có đúng vậy không? Thực tế trả lời là không hẳn, mặc dù các bệnh không truyền nhiễm phổ biến cả ở nông thôn với thành thị, miền núi và miền xuôi. Về tổng thể, các bệnh không truyền nhiễm có nguy cơ đẩy các gia đình vào nghèo đói hoặc khó khăn tài chính nghiêm trọng. WHO gọi những khoản chi phí cho y tế ở mức vượt quá khá năng chi trả, khi chiếm tới hơn 40% thu nhập khả dụng (sau khi trừ chi phí sinh hoạt cơ bản) là chi phí y tế thảm khốc (catastrophic health expenditure). Vào năm 2013, một nhóm nghiên cứu ở trường Y tế công cộng, Đại học Y Hà Nội, Cao đẳng y tế Thanh Hóa và các cộng sự quốc tế, khi tìm hiểu về 492 gia đình sống ở khu ổ chuột và 528 gia đình sống trong các khu dân cư khác ở Hà Nội, đã phát hiện ra các gia đình nghèo ở các khu ổ chuột có khả năng phải đối mặt với chi phí y tế thảm khốc và tình trạng nghèo đói cao hơn. Một trong những vấn đề là “các nhóm hộ gia đình khó khăn, chẳng hạn như các hộ gia đình sống ở khu ổ chuột, người nghèo và có thành viên gia đình lớn tuổi hoặc các thành viên mắc các bệnh không lây nhiễm, có nhu cầu về dịch vụ chăm sóc sức khỏe cao hơn”, họ viết trong công bố 2

Ảnh: Shutterstock.

Bệnh tật, theo cách này, đã khoét sâu thêm sự cách biệt giàu nghèo, và tạo ra nghịch lý ẩn giữa những người già sống trong những hoàn cảnh khác nhau. Cho đến nay, mặc dù việc chăm lo sức khỏe cho người già Việt Nam thông qua bảo hiểm y tế “có thể khẳng định là tốt hơn so với trước, khi bảo hiểm y tế xã hội tự nguyện giúp tăng tỷ lệ khám ngoại trú và nhập viện nội trú hằng năm của người có bảo hiểm lần lượt khoảng 43% và 63%” như nhận định của GS. Giang Thanh Long, nhưng “có sự khác biệt trong tiếp cận dịch vụ y tế ở các nhóm khác nhau, ví dụ như thành thị thì cao hơn nông thôn, miền xuôi cao hơn miền núi”. 

Sự cách biệt này chủ yếu là do bốn yếu tố tác động, cả ở thành thị và nông thôn, là tài sản của gia đình, sự sắp xếp cuộc sống (sống một mình, sống với con cháu…), nơi sống và bảo hiểm y tế. Đây là điều các nhà nghiên cứu rút ra từ phân tích dữ liệu từ Khảo sát về người cao tuổi và bảo hiểm y tế Việt Nam và Mức sống hộ gia đình Việt Nam. “Có sự bất bình đẳng đáng kể về sức khỏe liên quan đến điều kiện kinh tế xã hội của người già khó khăn mắc bệnh không truyền nhiễm, ở cả nông thôn và thành thị”, GS. Giang Thanh Long và nhóm nghiên cứu viết3. Người già thường trì hoãn hoặc tránh đi khám bệnh do khó khăn về tài chính và giao thông, khiến các phòng khám tư trở thành lựa chọn duy nhất dễ tiếp cận. “Họ  đôi khi phải đến phòng khám tư vì bệnh viện công ở quá xa”, một y tá ở Huế cho biết 4.

Người già ở vùng nông thôn gặp khó khăn về tài chính do chi phí chăm sóc sức khỏe tự trả cao, nhiều người phải dựa vào sự hỗ trợ của con cái để chi trả (trong một nghiên cứu thì con số này lên tới 89% 5), trong khi mức chi trả từ bảo hiểm y tế vẫn còn hạn chế. Người già sống trong gia đình thu nhập thấp thành thị, dù có bảo hiểm vẫn gặp phải khoảng cách về chất lượng dịch vụ so với những người già may mắn sống ở gia đình có thu nhập cao 4. “Sự tồn tại của những khoảng cách trong chăm sóc sức khỏe người già có thể còn do sự khác biệt về khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhận thức về sức khỏe và chăm sóc sức khỏe ở thành thị so với nông thôn”, GS. Giang Thanh Long nói. 

“Cấu trúc, quy mô gia đình, dòng chảy lao động, chức năng và mối quan hệ gia đình đều đang thay đổi một cách đáng kể, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến người già”. (PGS. TS Trần Thị Minh Thi)

Tất cả những yếu tố này, khi hội tụ tại làm tăng gánh nặng tài chính trong chăm sóc sức khỏe người già nông thôn so với người già thành thị. Dù có bảo hiểm y tế hay không thì các gia đình ở nông thôn có tỷ lệ chi trả cao hơn, và do đó, tỷ lệ nghèo hóa vì chi phí này cao hơn so với các gia đình ở thành thị. Vì vậy, GS. Giang Thanh Long cho rằng, “Nếu nói về góc độ chăm sóc, phúc lợi theo nghĩa rộng thì những gì người già sống ở nông thôn được hưởng kém hơn thành thị, đặc biệt với người yếu thế, khuyết tật vận động… Họ dễ bị bỏ lại phía sau”.

Những nét cơ bản về sức khỏe của người già Việt Nam khiến chúng ta nhận thấy sự tương đồng quen thuộc với những điều ông bà bố mẹ, cô dì chú bác họ hàng người quen vẫn phải chịu đựng, sau cả một quãng đời lăn lộn, lao động kiếm sống và nuôi dạy con cái trưởng thành – một chu trình thời gian không thể đảo ngược. “Người già bây giờ chính là người trẻ cách đây mấy chục năm, họ phải sống trong chiến tranh, không có điều kiện chăm sóc sức khỏe. Họ vốn sợ cái chết rình rập hơn là không được học tập hoặc lo về những cái khác; thời thơ ấu của họ trải qua chiến tranh. Vì vậy, họ cần được xã hội chăm sóc hơn là phải phát huy điều này, điều khác”, GS. Giang Thanh Long nhấn mạnh thêm về việc cần phải hiểu đặc trưng của của người già hiện tại để có những ứng xử chính sách và nhân tình thế thái phù hợp.   

Tuy nhiên, sống trong một xã hội đang không ngừng đổi thay, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những xê dịch về cấu trúc gia đình, lối sống, quan điểm, sở thích… Và cho đến một ngày nào đó, chúng ta mới có thể nhận ra rằng vấn đề sức khỏe tâm thần (mental health) ở người già cũng quan trọng như sức khỏe thể chất. Và đó cũng là điểm mà có thể dẫn đến nhiều hệ lụy.

Các cựu chiến binh trong ngày gặp mặt. Ảnh: Báo Hải dương

“Già bát cơm bát canh…”  

Trong vòng mấy chục năm sau Đổi mới, việc sống trong một xã hội chuyển từ thiếu ăn, thiếu mặc sang ăn no, mặc ấm rồi vừa mới ngấp nghé ăn ngon, mặc đẹp, khiến người ta vẫn còn quan tâm đến sức khỏe thể chất nhiều hơn. Không mấy người quan tâm đến những biểu hiện tâm lý thay đổi của người già sống trong gia đình. “Rất nhiều bối cảnh và nhân tố dẫn đến sức khỏe tâm thần của người cao tuổi”, để rồi, khi tích tụ lại, “nó như một hồ chứa bật ra bất ngờ và khi đó con cháu mới biết”, GS. Giang Thanh Long đề cập đến vấn đề mà anh quan sát và chiêm nghiệm sau quá trình hơn 20 năm làm nghiên cứu và khảo sát về chính sách xã hội với người già. 

Những thay đổi diễn ra trong một xã hội trọng truyền thống “kính lão, đắc thọ”, “kính già, già để tuổi cho”, nhìn bề ngoài, không làm ảnh hưởng đến vị thế đặc biệt của người già trong gia đình và cộng đồng, nhưng từng bước một, nó đã để lại dấu vết. “Cấu trúc, quy mô gia đình, dòng chảy lao động, chức năng và mối quan hệ gia đình đều đang thay đổi một cách đáng kể, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến người già”, theo PGS. TS Trần Thị Minh Thi (Viện Thông tin KHXH, Viện Hàn lâm KHXHVN)7.  

Thông thường, sức khỏe tâm thần của người già là được sống thảnh thơi, bệnh tật một chút cũng được nhưng cũng có thể bù đắp bằng sự quan tâm chăm sóc, lòng hiếu thảo của con cháu về cả tinh thần lẫn vật chất. Đó là điều mà người già vẫn được hưởng trong mô hình gia đình truyền thống nhiều thế hệ. Tuy nhiên, theo thời gian, mô hình này không còn phổ biến, bên cạnh sự xuất hiện mô hình mới như hộ gia đình một người hoặc chỉ sống với vợ hoặc chồng trong vài thập kỷ. Đặc biệt ở nông thôn, ly hương đi tìm việc làm, kiếm kế sinh nhai hay tìm những cơ hội sống tốt hơn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng của các gia đình “bỏ thế hệ” (‘skip-generation’ households), chỉ còn người già sống một mình hoặc với cháu. Việc con cái ly hương khiến cho người già cảm thấy bơ vơ, không chỉ làm giảm đáng kể việc chăm sóc người già như truyền thống mà còn trong các gia đình ‘bỏ thế hệ’, ông bà phải thay thế nhận trách nhiệm trong cuộc sống hằng ngày với cháu nhỏ đang độ tuổi đi học. “Một mặt, người ly hương có thể có được lợi ích kinh tế và kiến thức để tạo ra ‘sự bình đẳng’ thu nhập và mức sống của toàn gia đình cao hơn. Mặt khác, dường như nó lại làm xuất hiện ‘sự bất bình đẳng’ mới đối với những người bị bỏ lại phía sau, bao gồm cả những người già với trách nhiệm chăm sóc ngày càng tăng đối với bản thân và cháu chắt”, PGS. TS Trần Thị Minh Thi phân tích. Mặc dù người già thường kỳ vọng vào “của để dành” là con cái nhưng ở tuổi xế chiều, khi sức khỏe đã kém và khoảng cách thế hệ với cháu đã ngày càng bị khoét sâu, việc phải thay bố mẹ chăm sóc cháu đã trở thành gánh nặng với người già. 


Sẽ cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề, từ gia đình đến xã hội, mới có thể đưa người già Việt Nam đến một sống an vui theo các mô hình già hóa thành công (successful ageing), già hóa khỏe mạnh (healthy ageing), hay già hóa khỏe mạnh toàn diện (ageing well).

Ước mơ về một nếp sống êm đềm, con cháu quần tụ không chỉ thường trực với người già nông thôn mà cả thành thị. Tuy nhiên, ở những nơi này, “do di cư và áp lực công việc cao, việc con cái chăm sóc trực tiếp bố mẹ đang giảm dần. Con cái thể hiện trách nhiệm của mình với cha mẹ thông qua một số hình thức chăm sóc gián tiếp như hỗ trợ tài chính và giao tiếp qua mạng xã hội”, theo PGS. TS Trần Thị Minh Thi. Có một vấn đề là ở trong những gia đình chỉ có ông bà tự chăm sóc nhau, việc chăm sóc không chính thức cũng làm giảm mức độ hạnh phúc tâm lý, sự không hài lòng với cuộc sống và những hạn chế về chức năng, đặc biệt với nữ, bất chấp quan điểm truyền thống “con chăm cha không bằng bà chăm ông” 8

Trong xã hội, việc gia đình chung sống nhiều thế hệ không còn phổ biến nữa, sự cá nhân hóa đang gia tăng trong giới trẻ Việt Nam và những người có trình độ học vấn cao hơn ở nhiều khía cạnh lối sống đã buộc “người già phải tái cấu trúc lối sống theo hướng tự chủ để phù hợp với các mối quan hệ gia đình, đồng thời tái cấu trúc các giá trị và kỳ vọng để thích ứng với các giá trị văn hóa, sự chuyển đổi, và tình trạng thiếu hụt tài chính và chăm sóc”, theo nhận xét của PGS. TS Trần Thị Minh Thi.  

Mối lo ngại hiện hữu ở đây là nỗi cô đơn, sự trầm cảm của người già. Là một nhà nghiên cứu từng phân tích rất nhiều khía cạnh trong sức khỏe thể chất, tinh thần cũng như thu nhập của người già, GS. Giang Thanh Long cho rằng, “người già sống một mình có nguy cơ cô đơn cao nhưng mà kể cả sống trong một gia đình nhiều thế hệ cũng vẫn cô đơn và nỗi cô đơn này có thể còn cao hơn người sống một mình”. Cái bận rộn của cuộc sống hiện đại, sự thay đổi về lối sống và ngày một cá nhân hóa khiến cho những bữa cơm, những buổi trò chuyện sum họp dần trở nên ít đi và “sự kết nối giữa mọi người rất yếu. Chính vì vậy mà người già càng cảm thấy bị phớt lờ, bỏ mặc, cô đơn trong gia đình và càng làm cho vấn đề sức khỏe tâm thần trầm trọng hơn. Nhiều phân tích dùng dữ liệu cho thấy rất rõ điều này”.

Có lẽ, ít ai ngờ rằng trên thực tế, sự trầm cảm của người già lại xuất hiện phổ biến. Một nghiên cứu mặt cắt vào năm 2018 tại một phường có mật độ dân số cao ở Hà Nội cho thấy 66,89% người già có nguy cơ mắc trầm cảm từ mức độ nhẹ và trung bình đến nặng. “Người cao tuổi dường như chỉ được chẩn đoán ở giai đoạn muộn của bệnh trầm cảm, trong khi những người bị trầm cảm nhẹ và trung bình vẫn chưa được sàng lọc và chẩn đoán mắc bệnh trầm cảm và chỉ nhập viện khi bệnh trầm cảm của họ đã tiến triển thành dạng nặng”, các nhà nghiên cứu ở Đại học Y Hà Nội nhận xét 9

Ở nông thôn, nơi có không khí trong lành, gần gũi với thiên nhiên và sự gắn kết làng trên xóm dưới bền chặt hơn so với đô thị nhưng người già vẫn không thoát khỏi cái bóng này. Hơn một phần tư người già ở nông thôn và miền núi có nguy cơ mắc trầm cảm cao 10. “Nghiên cứu của chúng tôi nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa các triệu chứng trầm cảm ở người già và các yếu tố liên quan đến gia đình. Những người già có sự hỗ trợ của gia đình, bao gồm việc chia sẻ gánh nặng công việc nhà và hỗ trợ tài chính cũng như chăm sóc tình cảm, ít có khả năng có các triệu chứng trầm cảm so với những người không có sự hỗ trợ của gia đình”, nhóm các nhà nghiên cứu ở ĐH Y tế công cộng nhận xét trong nghiên cứu khảo sát người già nông thôn. 

Sống trong một thế giới bị phân mảnh thành vô số thế giới riêng, khi người trẻ dần thích nghi để tạo dựng thói quen mới như ăn một mình, sống một mình, du lịch một mình, nhưng lại khiến người già càng cô đơn và càng xa cách với thực tại hơn. Trưởng thành và làm việc trong một xã hội cách đây vài chục năm, người già chưa quen với những thay đổi đó, không chỉ về lối sống mà còn công nghệ, vốn phát triển chóng mặt trong vài năm trở lại đây. Khoảng cách số mà người già phải đối mặt càng làm trầm trọng thêm sự bất bình đằng trong tiếp cận thông tin mới và kết nối xã hội. Các nhà nghiên cứu xã hội học đã xác định người già, cùng với người nghèo, người sống ở nông thôn hoặc vô gia cư đều gặp phải khoảng cách số so với những người khác. Có một nghịch lý tồn tại về khoảng cách số ở một quốc gia như Việt Nam – nơi có 71,7% dân số sử dụng internet, 71% người sử dụng mạng xã hội, 74,3% sử dụng điện thoại thông minh – chỉ có 12,7% người già truy cập internet, và chỉ có 20% trong số này tự tin và thoải mái trong tìm kiếm và sử dụng các ứng dụng online, theo báo cáo của bà Trần Bích Thủy, giám đốc Tổ chức HelpAge International tại Việt Nam, trong diễn đàn năm 2023 của Ủy hội Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương (Liên Hợp Quốc) 11

Đó cũng là lý do vì sao GS. Giang Thanh Long cho rằng “cái khoảng cách số đã hiển hiện, nó làm cho cái cảm giác bị bỏ lại phía sau của người cao tuổi càng rõ. Bây giờ con cái có thể mua điện thoại thông minh nhưng bố mẹ ông bà lại đều không biết dùng, cuối cùng phải quay về điện thoại ‘cục gạch’ mà ‘cục gạch’ bây giờ thì không ai sửa nữa. Thực sự bị bỏ lại đằng sau, không tiến tới được thiết bị tốt hơn và sử dụng tiện ích mà nó mang lại”.

Nỗi cô đơn, sự trầm cảm và khoảng cách số ở người già là nguyên nhân khiến cho “khả năng bị lừa đảo qua mạng rất dễ. Vốn dĩ, người Việt Nam khá nhạy cảm với những thứ liên quan đến an ninh, tình trạng nguy cấp nên trong một thời gian ngắn dồn dập đưa ra những câu ‘ông/bà liên quan đến vụ án này, vụ án kia’ thì không kịp định hình được. Hoặc là nỗi cô đơn khiến cho người già chỉ cần nghe một vài lời thưa gửi ngọt ngào, thể hiện sự quan tâm đến sức khỏe là có thể dễ bị rơi vào tròng”, GS. Giang Thanh Long đề cập đến một phần nguyên nhân khiến người già dễ bị những kẻ lừa đảo móc túi trắng trợn. 

Người già Việt Nam như bị đặt vào thế chông chênh, giữa một xã hội đang không ngừng vận động, đổi thay.

Cách nào để già hóa khỏe mạnh, an vui?

Như những cuộn sóng xoáy sâu dưới mặt nước lặng, câu chuyện về sức khỏe thể chất và tâm thần của người già Việt Nam quả thực ẩn dấu những điều không dễ bóc tách và thường dễ bị bỏ qua, nhất là khi nhịp sống gấp gáp và nỗi bận tâm “cơm áo gạo tiền” đã đặt việc nuôi dưỡng mối liên kết gia đình xuống hàng thứ cấp. Có lẽ, sẽ cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề, từ mỗi gia đình đến xã hội, mới có thể đưa người già Việt Nam đến một sống an vui theo các mô hình mà WHO và các tổ chức quốc tế đề xuất như già hóa thành công (successful ageing), già hóa khỏe mạnh (healthy ageing), hay già hóa khỏe mạnh toàn diện (ageing well) – bao hàm cả sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và chất lượng cuộc sống.

“Không gì tốt hơn đầu tư cho y tế dự phòng nói chung và bệnh cho người già nói riêng, có thể bỏ ra một đồng nhưng tiết kiệm được ba đồng cho chi phí xã hội”, GS. Giang Thanh Long nói. “Cũng rất may mắn là trong vòng 10 năm trở lại đây, các văn bản liên quan đến chính sách về người già, đặc biệt là luật Người cao tuổi năm 2019, tiếp đến là các thông tư, nghị định liên quan đến hỗ trợ người già, đã thể hiện sự quan tâm của chính phủ. Vấn đề ở đây là giữa luật pháp với thực thi vẫn còn nhiều vấn đề”. Trên thực tế thì những vấn đề trong thực thi là do sự tồn tại của một số thách thức với ngành y tế: hệ thống cơ sở hạ tầng phân bố không đồng đều, hệ thống giao thông chưa đủ tốt và hệ thống chăm sóc sức khỏe bị phân mảnh 12. Đó là lý do mà một y tá ở một bệnh viện tại Huế đã chia sẻ trở ngại trong chăm sóc người già ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình điều trị và tâm lý ngại đến bệnh viện “Thách thức lớn nhất hiện nay là chúng tôi không đủ nhân viên, thứ hai liên quan đến cơ sở vật chất. Vào mùa đông, bệnh nhân muốn tắm, nhưng chúng tôi không có nước ấm cho họ. Vấn đề vệ sinh là yêu cầu tối thiểu nhưng chúng tôi không thể đáp ứng” 13

Để cải thiện sức khỏe người già, đặc biệt tham khảo các mô hình hỗ trợ thành công người già ở nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực Đông Nam Á, yếu tố cốt lõi là sự hỗ trợ hai chiều, gia đình và xã hội. “Đảo đi đảo lại trong các vấn đề liên quan đến nâng cao chất lượng cuộc sống cho người già là hỗ trợ về mặt xã hội (social support) – người già làm công việc hỗ trợ trong gia đình theo môi trường hai chiều như hỗ trợ con cháu, chăm sóc người trong gia đình hay ngược lại, người trong gia đình hỏi thăm, trò chuyện, gọi điện thoại, gửi quà, gửi tiền cho ông bà… làm cho kết nối gia đình (family connection) nó liền mạch”, GS. Giang Thanh Long phân tích. “Ngoài ra, có rất nhiều hoạt động xã hội tích cực ở địa phương như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, các câu lạc bộ Thơ, Yoga, Thái cực quyền… Tham gia càng nhiều thì nguy cơ mắc và tình trạng mắc các bệnh không truyền nhiễm càng giảm”. Có lẽ, một vài ví dụ mà người Việt Nam đã từng quen thuộc và thường được nhắc đến như một điều gì đó mang tính hình thức, thậm chí là hài hước như câu lạc bộ thơ phường, câu lạc bộ liên thế hệ. “Cách đây 20 năm, việc các cụ tham gia những tổ chức này thường bị con cháu chê bôi nhưng giờ thì ngược lại, con cháu lại ủng hộ khi thấy các cụ tự tin hòa nhập, mà có được điều này thì tinh thần và sức khỏe rất tốt”.

Câu chuyện của người già hóa ra lại gắn bó chặt chẽ với một khái niệm đang được nhắc đến nhiều ở Việt Nam, khái niệm học tập suốt đời. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách cứng nhắc học tập cứ phải có bàn ghế như các lớp học thông thường, GS. Giang Thanh Long lưu ý, cần phải hiểu khái niệm này một cách linh hoạt là mọi phương thức giúp người già “lúc nào cũng ở trạng thái động, tiếp thu cái mới, hoặc là cải tạo cái cũ”. Liên hệ đến mô hình câu lạc bộ hỗ trợ người già thành công ở Thái Lan, anh đánh giá ‘thanh niên có thể hỗ trợ người già sử dụng các công nghệ số, đồng thời con cháu trong nhà cũng có thể tham gia hỗ trợ, hướng dẫn sử dụng… Học để chơi, có được sức khỏe não và giao lưu cộng đồng là chính’. 

Mở rộng ra, trên thị trường lao động, các trung tâm việc làm có thể mở các khóa đào tạo nâng cao, hoặc tái đào tạo để người già có thể tham gia vào các công việc phù hợp với khả năng và sức lao động. Trong bối cảnh xã hội vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến hệ thống an sinh xã hội với người già, và hệ thống trợ cấp chưa hỗ trợ đủ mạnh để hỗ trợ cuộc sống của người già, PGS. Trần Thị Minh Thi cho rằng cần tạo điều kiện cho người già tham gia vào các hoạt động kinh tế của gia đình và xã hội để tăng sự độc lập kinh tế và gắn kết gia đình. “Khi số lượng người già gia tăng, xã hội cần phải xem xét chính sách thị trường lao động, bao gồm tận dụng hiểu biết, kỹ năng và khả năng lao động của người già. Với tuổi thọ cao hơn, chất lượng cuộc sống tốt hơn, ngày càng có nhiều người già khỏe mạnh vẫn còn có nhu cầu làm việc, không phải chỉ vì mục tiêu kinh tế mà còn duy trì sự minh mẫn, sức khỏe… Cần phải xem xét người già theo cách tích cực chứ không phải là gánh nặng xã hội”. Mặc dù gia đình truyền thống là nơi đảm bảo cho tuổi xế chiều “nhưng sự thay đổi trong các chuẩn mực văn hóa cho thấy những dấu hiệu kỳ vọng cao hơn vào trách nhiệm của nhà nước trong hỗ trợ người già”, PGS. Trần Thị Minh Thi nhận xét.

Một cuộc sống khỏe mạnh, an vui, dù được định nghĩa theo từ khóa nào, già hóa thành công hay già hóa khỏe mạnh toàn diện, thì xét cho cùng, cũng là đem lại cho những con người một thời hoạt động và đóng góp sôi nổi, một điểm tựa vững vàng giữa những đổi thay. Đây có phải là điều mà chính sách xã hội và gia đình cần làm cho người già? □

Chú thích

1. https://www.who.int/vietnam/vi/news/feature-stories/item/caring-for-people-with-noncommunicable-diseases-in-viet-nam-the-nearest-health-care-is-often-the-best-health-care

2.  Kien, V.D., Van Minh, H., Giang, K.B. et al. Socioeconomic inequalities in catastrophic health expenditure and impoverishment associated with non-communicable diseases in urban Hanoi, Vietnam. Int J Equity Health 15, 169 (2016). https://doi.org/10.1186/s12939-016-0460-3

3.  Le DD, Leon-Gonzalez R, Giang TL, Nguyen AT. Socio-economic-related health inequality in non-communicable diseases among older people in Viet Nam. Ageing and Society. 2021;41(6):1421-1448. doi:10.1017/S0144686X19001843

4.  Man Thi Hue Vo, Keiko Nakamura, Dai Tri Han Tran, T J Robinson T Moncatar, Is equitable access to health and social care possible for Vietnamese older adults? Care providers’ perspectives, International Health, 2025; https://doi.org/10.1093/inthealth/ihaf066

5.  “Các nhân tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ khám, chữa bệnh của người cao tuổi Việt Nam”. Tạp chí Kinh tế và phát triển. 2023

6.  Thi TTM. Involvement of Vietnamese elders in economic activities in the lens of family ties, low institutional coverage, and gender identity. International Journal of Asian Studies. 2024;21(2):284-303. doi:10.1017/S147959142300058X

7.  Le, D. D., Dang, T. N. H., & Giang, L. T. (2024). The Effects of Spousal Caregiving on Middle-Age and Older Caregivers’ Health and Well-Being: Evidence From Vietnam. Research on Aging, 47(1), 47-65. https://doi.org/10.1177/01640275241263622

8.  “Factors Associated with Depression among the Elderly Living in Urban Vietnam”. BioMed Research International.

9.  Do TTH, Nguyen DTM, Nguyen LT. Depressive Symptoms and Their Correlates Among Older People in Rural Viet Nam: A Study Highlighting the Role of Family Factors. Health Services Insights. 2022;15. doi:10.1177/11786329221125410

Hoang Lan N, Thi Thu Thuy N. Depression among ethnic minority elderly in the Central Highlands, Vietnam. Health Psychology Open. 2020;7(2). doi:10.1177/2055102920967236

10.  https://www.unescap.org/sites/default/d8files/event-documents/Thuy%20Tran%20-Vietnam-UNESCAP-digital%20divide-Nov%2023_for_website.pdf

11.  https://tiasang.com.vn/tin-tuc/ti-le-nguoi-mac-dot-quy-o-viet-nam-cao-nhat-dong-nam-a/

12.  Man Thi Hue Vo, Keiko Nakamura, Kaoruko Seino, T J Robinson T Moncatar, Tran Dai Tri Han, Kathryn Lizbeth L Siongco, Yuri Tashiro, Thang Van Vo, Can collaboration among health and social care workers play a role in addressing geriatric care challenges? A qualitative case study in Central Vietnam, International Health, Volume 16, Issue 4, July 2024, Pages 387–398, https://doi.org/10.1093/inthealth/ihad082

Bài đăng Tia Sáng số 22/2025

Tác giả

(Visited 25 times, 24 visits today)