Nhạc đỏ, nhạc nhẹ và Jazz trong thời đại mới
Trong mối lương duyên bất ngờ với nhạc nhẹ và Jazz mà chất xúc tác quan trọng là các đoàn văn công, nhạc đỏ đã được truyền một sức sống mới và trở thành một di sản đương đại sống động.

Có thể với nhiều người Việt Nam, đây là một điều bất ngờ. Thông thường, nhạc đỏ được coi là tương đối biệt lập so với những dòng nhạc khác bởi tính chất nghiêm trang, hùng tráng và oai phong, tưởng chừng chỉ còn phù hợp với các lễ kỷ niệm. Thế nhưng sự phát triển không ngừng của xã hội và ngay cả những chuyển động của chính những nghệ sĩ thuộc các đoàn văn công, trong sự tương tác với những nghệ sĩ của các dòng nhạc khác đã tạo nên sự thay đổi mà người trong cuộc đôi khi cũng khó hình dung hết. Sự va chạm và tiếp nhận những cái mới từ bên ngoài cộng hưởng với những thay đổi từ bên trong đã ươm mầm sức sống mới cho nhạc đỏ.
Vai trò bất ngờ của đoàn văn công
Trước hết, bối cảnh đất nước sau ngày thống nhất đã đem lại những yêu cầu thưởng thức nghệ thuật mới. Sống trong kỷ nguyên hòa bình, mọi người khao khát có thêm những hình thức âm nhạc mới mẻ, đa dạng và “nhẹ nhàng” hơn so với âm điệu có phần “nghiêm túc” của nhạc đỏ cũng như những loại hình âm nhạc quốc tế thịnh hành. Tuy chính sách văn hóa thời kỳ đó đã chuyển hướng cơn sốt rock & roll từng lan tỏa ở các thành phố lớn miền Nam thành ca khúc chính trị nhưng âm hưởng rock trong các ca khúc đã vang lên trên nhiều sân khấu vào đầu thập niên 1980. Bối cảnh ấy đã dẫn đến sự ra đời của Nhạc xanh, âm nhạc của giới trẻ, dù không tránh khỏi những chỉ trích về giá trị nghệ thuật từ các nhạc sĩ chuyên nghiệp.
Mặt khác, đời sống hòa bình đã tạo ra nhiều cơ hội cho mọi người tụ họp, gặp gỡ, tổ chức cưới hỏi, sinh nhật…, và thứ âm nhạc mới đã được biểu diễn sôi nổi rộng khắp. Vào thời đó, những người trẻ Việt Nam có trào lưu mặc quần ống loe thời thượng, nam giới để tóc dài, và bí mật nghe, nhảy theo các giai điệu pop và disco phương Tây.
Khi nhắc đến sự phát triển của âm nhạc Việt Nam thập niên 1980, người ta không thể không nhắc đến Jazz. Dòng nhạc này xuất hiện dè dặt trong cái áo Nhạc nhẹ và trong sự giao thoa với Nhạc đỏ với vai trò ngầm của Đoàn văn công, và hơn nữa, bởi nỗ lực của Quyền Văn Minh, Lưu Quang Minh, và các nhạc sĩ jazz khác.
Từ những khao khát đó của người nghe, các nhạc sĩ Việt Nam, đặc biệt từ miền Bắc, đã bắt đầu thành lập các ban nhạc kết hợp sử dụng các nhạc cụ điện tử mới có sẵn từ miền Nam để chơi nhạc không lời dễ nghe hoặc các phiên bản không lời của các bài hát Việt Nam được yêu chuộng và các bài hát nổi tiếng nước ngoài từ đĩa than mang về từ các quốc gia khối XHCN. Các bài hát Việt Nam về tình yêu và cuộc sống được phân loại là nhạc nhẹ và được phép biểu diễn công khai cùng với nhạc đỏ và nhạc dân gian truyền thống. Sự chuyển biến mới này đã khơi nguồn cho sự ra đời của các ban nhạc nhẹ mà đi tiên phong là Nhà hát Tuổi Trẻ vào năm 1977. Sự táo bạo này đã thúc đẩy các đoàn ca múa dần thành lập các nhóm nhạc nhẹ với các chương trình biểu diễn mới vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980. Thậm chí, Đoàn Cải lương Chuông vàng Thủ đô vào năm 1980 cũng mời nghệ sĩ jazz tiên phong Quyền Văn Minh giúp thành lập ban nhạc nhẹ để biểu diễn Chương trình Tân Cổ giao duyên. Không lâu sau, ông được mời tham gia Đoàn Ca múa Thăng Long để dẫn dắt ban nhạc nhẹ của họ. Nghệ sĩ arccodion Lưu Quang Minh, khi đó đã giảng dạy tại Nhạc viện Quốc gia, nhớ lại việc thành lập các ban nhạc kết hợp nhạc cụ điện tử chơi các phiên bản không lời sôi động của các bài nhạc đỏ nổi tiếng và các giai điệu nhạc nhẹ khác ở các thành phố miền Bắc vào đầu thập niên 1980. Đến năm 1986, Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam (trước đây là Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương) tách thành Đoàn Ca nhạc nhẹ Trung ương, có trụ sở hoạt động riêng.
Ít ai để ý rằng, sự chuyển biến của môi trường chung cũng được các nghệ sĩ đoàn văn công thúc đẩy và dự phần vào sự xuất hiện của Nhạc nhẹ tại Việt Nam, mặc dù nhìn bên ngoài, danh mục biểu diễn chính thức của họ nhìn chung vẫn không thay đổi. Trên thực tế thì những chuyển đổi thực sự đã diễn ra trong các đoàn văn công từ trước đó. Với vị thế của mình, họ là những người đầu tiên tiếp xúc với nền âm nhạc miền Nam khi cuộc kháng chiến chống MỸ kết thúc. Theo các đoàn quân tiếp quản các thành phố và tỉnh phía Nam, các nhạc sĩ Đoàn văn công đã được tiếp xúc với các nhạc cụ điện tử và thiết bị âm thanh bị bỏ lại, cùng với các bộ sưu tập đĩa than, băng cassette ở nhiều nơi. Người dân địa phương, lo ngại về việc giữ các hiện vật văn hóa bị cấm, đã cho đi hoặc bán bộ sưu tập âm nhạc, nhạc cụ phương Tây nhập khẩu, và thiết bị âm thanh cho các nhạc sĩ miền Bắc, những người đang tìm kiếm những tài liệu âm nhạc không có sẵn ở miền Bắc.

Một cuộc tiếp xúc, giao lưu nảy nở âm thầm giữa các nghệ sĩ Đoàn văn công với với các nghệ sĩ miền Nam. Là những nhạc sĩ tài năng nhất từ miền Bắc, các nhạc sĩ Đoàn văn công nhanh chóng học hỏi từ các tài liệu “mới” từ miền Nam và kết hợp các ý tưởng mới vào cách chơi của mình. Mặc dù các Đoàn Ca múa dân sự là những đơn vị đầu tiên chính thức thành lập các nhóm Nhạc nhẹ và đưa Nhạc nhẹ vào chương trình biểu diễn, các nhạc sĩ Đoàn văn công cũng tích cực chơi Nhạc nhẹ trong các dịp không trang trọng. Khi dòng Nhạc nhẹ được chính thức công nhận sau Đổi mới, các nhạc sĩ chuyên nghiệp từ cả Đoàn văn công và Đoàn Ca Múa đã tham gia tích cực vào ngành công nghiệp âm nhạc đang bùng nổ, biểu diễn tại các phòng trà, sảnh khách sạn, nhà hàng, quán bar, và các buổi hòa nhạc của các nghệ sĩ nổi tiếng, cũng như tham gia các buổi thu âm sản xuất Nhạc nhẹ và các tình khúc Việt Nam mới được phép biểu diễn. Trường Văn hóa Nghệ thuật Quân đội và Trường Văn hóa Nghệ thuật Hà Nội đã bắt đầu dạy Nhạc nhẹ sớm hơn so với Nhạc viện Quốc gia.
Khi nhắc đến sự phát triển của âm nhạc Việt Nam thập niên 1980, người ta không thể không nhắc đến Jazz. Dòng nhạc này xuất hiện dè dặt trong cái áo nhạc nhẹ và trong sự giao thoa với nhạc đỏ với vai trò ngầm của Đoàn văn công, và hơn nữa, bởi nỗ lực của Quyền Văn Minh, Lưu Quang Minh, và các nhạc sĩ jazz khác. Ngay cả trong công việc hằng ngày tại Đoàn văn công, họ đều lén đưa một chút jazz vào khi có thể. Trong số những người gieo hạt mầm đầu tiên cho jazz Việt trong sự giao hòa với nhạc đỏ và nhạc nhẹ là Quyền Văn Minh, người học cách trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp của Đoàn văn công Quân khu Việt Bắc năm 1970, khi mới 16 tuổi. Khi chơi trong Đoàn văn công, Lưu Quang Minh tiếp xúc với jazz Cuba khi tiếp đón các chuyên gia Cuba trong rừng Quảng Trị. Các nhạc sĩ Đoàn văn công như Lưu Quang Minh, theo quân đội xuống miền Nam, tiếp xúc với các đĩa jazz lưu hành ở miền Nam. Hùng Sơn, một nghệ sĩ jazz kỳ cựu, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các đĩa jazz và Nhạc nhẹ mà cha ông, một nhạc sĩ tên tuổi trong Đoàn văn công Tổng cục Chính trị, mang về.
Jazz xuất hiện trong bức tranh âm nhạc Việt Nam dưới nhãn Nhạc nhẹ quốc tế khi Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng các buổi độc tấu saxophone của Quyền Văn Minh vào năm 1988 và 1989. Đáng chú ý, Đàm Linh, nhà soạn nhạc từng tham gia Đoàn văn công Tây Bắc khi đó là Phó Tổng Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam, đã ủng hộ đơn xin biểu diễn độc tấu của Quyền Văn Minh và giới thiệu buổi độc tấu trên truyền hình năm 1989. Khi Quyền Văn Minh bắt đầu chơi jazz tại các quán bar, nhà hàng, và khách sạn sang trọng ở Hà Nội vào thập niên 1990, các nhạc sĩ từ nhiều Đoàn Ca múa và Đoàn văn công lần lượt tham gia cùng ông. Sau khi Minh Jazz Club mở cửa năm 1997, các nhạc sĩ từ các Đoàn văn công như nghệ sĩ saxophone Hùng Sơn, và nhiều người khác trong các Đoàn Ca múa, tham gia biểu diễn thường xuyên. Nhiều nghệ sĩ jazz Hà Nội thường học âm nhạc tại Trường Văn hóa Nghệ thuật Quân đội, nơi Quyền Văn Minh cũng giảng dạy thường xuyên cùng với Nhạc viện Quốc gia. Một số nghệ sĩ là giảng viên tại các trường mà trước đã đào tạo thành viên cho Đoàn văn công từ thập niên 1950. Hùng Sơn, nghệ sĩ kèn lâu năm tại Nhà hát Ca múa Quân đội (tên sau chiến tranh của Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị) từ thập niên 1970, nhớ lại:
Chúng tôi chủ yếu biểu diễn nhạc đỏ và đôi khi là một vài bài pop Việt Nam. Khi tôi có thể phối một vài giai điệu mang chút “hương vị jazz” và khiến các buổi biểu diễn trở nên hấp dẫn hơn rất nhiều!

Khi giới thiệu jazz dưới nhãn nhạc nhẹ quốc tế, Quyền Văn Minh muốn chứng minh jazz là một hình thức nghệ thuật âm nhạc đáng trân trọng, có thể so sánh với nhạc cổ điển và phù hợp với thẩm mỹ âm nhạc Việt Nam. Nhờ vậy, Jazz trong cái áo nhạc nhẹ, do Lưu Quang Minh, Quyền Văn Minh và Hoàng Tùng khởi xướng tại Nhạc viện Quốc gia năm 1991, được cơ sở giáo dục và đào tạo âm nhạc hàng đầu của đất nước chấp thuận đưa vào chương trình đào tạo chính thức. Trong buổi hòa nhạc độc tấu năm 1994 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Quyền Văn Minh ra mắt ba tác phẩm Jazz lấy cảm hứng từ di sản âm nhạc truyền thống phong phú và đa dạng của Việt Nam. Jazz Việt nhanh chóng được truyền thông đón nhận như một âm thanh mang bản sắc độc đáo, đáng tự hào để giới thiệu với thế giới. Khi Hùng Sơn biểu diễn Giai điệu Sapa, một sáng tác của Quyền Văn Minh, tại Hội thi biểu diễn múa và âm nhạc dân tộc năm 2003, ông đã giành Huy chương Vàng. Kể từ đó, đây là giai điệu mà Hùng Sơn thường xuyên biểu diễn cùng Nhà hát Quân đội, đặc biệt trong các hoạt động ngoại giao văn hóa ở nước ngoài. Tại Nhạc viện Quốc gia, các bản nhạc Jazz do các nhạc sĩ Việt Nam hoặc chính sinh viên sáng tác, được vào danh mục thi.
Khi nhìn nhận lại mối quan hệ giữa Đoàn văn công (và Đoàn Ca múa) với jazz, có vẻ như các nhạc sĩ jazz Việt Nam khá kín tiếng khi nói về nhạc đỏ. Song trên thực tế, các nhạc sĩ jazz Việt Nam, đặc biệt là những người thuộc thế hệ lớn hơn, những người bắt đầu sự nghiệp nhạc sĩ chuyên nghiệp từ Đoàn văn công, vẫn gắn bó với nhạc đỏ. Tôi đã nghe Quyền Văn Minh nhắc lại những ngày trong Đoàn văn công một cách trìu mến và thỉnh thoảng chơi các giai điệu nhạc đỏ trên saxophone tại Minh Jazz Club và trong nhiều dịp riêng tư với bạn bè và người quen. Đối với các nhạc sĩ jazz Việt Nam trẻ hơn, những người làm việc toàn thời gian tại Đoàn văn công và Đoàn Ca múa, hoặc giảng dạy tại Trường Văn hóa Nghệ thuật Quân đội, nhạc đỏ là âm nhạc hằng ngày của họ.
Trong những năm gần đây, các nhạc sĩ jazz Việt Nam cũng đã trình tấu các phiên bản chuyển soạn những bài hát Việt Nam nổi tiếng từ nhạc tiền chiến, tình khúc Việt Nam (thập niên 1960 và 1970), và nhạc nhẹ (thập niên 1980) để thu hút nhiều khán giả Việt Nam hơn. Dù không có hình thức cố định về Jazz Việt, có thể coi đây là một âm thanh độc đáo được tạo ra từ sự giao thoa giữa jazz, di sản âm nhạc phong phú của Việt Nam (từ nhạc dân gian truyền thống, dân tộc đến tình khúc Việt Nam qua các thập kỷ và nhạc nhẹ phổ biến thập niên 1980), và những câu chuyện về con người và đất nước.
Câu chuyện phát triển của âm nhạc Việt Nam thời kỳ mới cũng như sự xuất hiện của các thể loại âm nhạc đa dạng từ nhu cầu thưởng thức của dân chúng cho thấy nhạc đỏ, âm thanh định hình một thời kỳ quan trọng của văn hóa Việt Nam hiện đại, không bị lãng quên, dù với các thế hệ sinh sau Đổi mới, sự cộng hưởng cảm xúc của nó mang sắc thái khác.
Nhạc đỏ như một di sản âm nhạc đương đại sống động
Các nghệ sĩ Đoàn văn công vẫn là những người gìn giữ nhạc đỏ, duy trì di sản âm nhạc đương đại này. Công bằng mà nói, các nhạc sĩ Việt Nam, đặc biệt là các nhạc sĩ Đoàn văn công, đã trình bày nhạc đỏ dưới các hình thức âm nhạc khác ngoài hình thức Tân Nhạc gốc. Nghệ sĩ accordion Xuân Tứ đã chuyển soạn những bài hát cách mạng nổi tiếng như Trường ca Sông Lô của Văn Cao và Du kích Sông Thao của Đỗ Nhuận thành các bản nhạc không lời cho accordion độc tấu, rồi trực tiếp biểu diễn cho quân đội và dân chúng trong kháng chiến chống Pháp. Ngoài việc chuyển soạn các bài Nhạc đỏ nổi tiếng thành các bản không lời, các nghệ sĩ accordion Việt Nam cũng sử dụng một số bài hát này làm cơ sở cho các sáng tác theo các hình thức âm nhạc cổ điển, ví dụ, Hoàng Tuấn và Vũ Thuận đã dựa vào bài Hành quân xa của Đỗ Nhuận để sáng tác Khúc biến tấu Hành quân xa (1966). Các sáng tác nhạc đỏ của Doãn Nho, như Tiến bước dưới quân kỳ, đã được phối khí và dàn dựng cho dàn nhạc giao hưởng và được các dàn nhạc lớn tại Việt Nam, trong đó có Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia, biểu diễn. Những nỗ lực “cổ điển hóa” nhạc đỏ cho thấy Nhạc đỏ, giống như nhạc dân gian, là một phần của di sản âm nhạc truyền thống phong phú mà các nhạc sĩ Việt Nam có thể khai thác để tạo ra thứ âm nhạc có giá trị nghệ thuật cao cho hiện tại và tương lai. Đây đều là những nỗ lực đáng giá để mở rộng phạm vi tiếp cận của Nhạc đỏ. Tuy nhiên, những phiên bản này vẫn được nhìn nhận là Nhạc đỏ, với tư cách là âm nhạc chính thống, nghiêm túc.
Câu chuyện phát triển của âm nhạc Việt Nam thời kỳ mới cũng như sự xuất hiện của các thể loại âm nhạc đa dạng từ nhu cầu thưởng thức của dân chúng cho thấy nhạc đỏ, âm thanh định hình một thời kỳ quan trọng của văn hóa Việt Nam hiện đại, không bị lãng quên, dù với các thế hệ sinh sau Đổi mới, sự cộng hưởng cảm xúc của nó mang sắc thái khác.
Trong khi đó, mối giao thoa đặc biệt với Jazz đã đem lại một sức sống khác và một sắc thái khác cho nhạc đỏ. Lúc này, vị trí chính thức của Jazz trong bức tranh âm nhạc Việt Nam đã được công nhận. Trong quá trình vật lộn tìm chỗ đứng này, các nghệ sĩ jazz đã sáng tạo Jazz Việt bằng cách khai thác di sản âm nhạc truyền thống và lấy cảm hứng từ những câu chuyện về con người, đất nước. Một cái nhìn nhanh vào danh mục đĩa nhạc jazz tại Việt Nam, tức là danh sách các album được cấp phép lưu hành chính thức, cho thấy các nhạc sĩ jazz Việt Nam đã khai thác nhạc dân gian truyền thống và dân tộc, lấy cảm hứng từ tình yêu đất nước, ký ức tuổi thơ, và đời sống thường nhật, đồng thời đem lại một biểu hiện mới cho các bài hát Việt Nam nổi tiếng qua các thập kỷ, trong đó có bài hát nhạc đỏ.
Tôi muốn kết thúc câu chuyện về nhạc đỏ, nhạc nhẹ và jazz Việt nam bằng hai ví dụ sống động. Nghệ sĩ saxophone jazz Quyền Thiện Đắc vào đầu năm 2025 đã thu âm một album các tác phẩm chuyển soạn các bài hát nhạc đỏ cho saxophone và dàn nhạc dây thính phòng. Quyền Thiện Đắc muốn giới thiệu nhạc đỏ qua jazz cho khán giả quốc tế cũng như mang thứ âm nhạc này đến các thế hệ trẻ Việt Nam, những người sinh ra và lớn lên sau Đổi mới. Ông chọn sáu bài hát cho dự án Câu hò bên bờ Hiền Lương, Chào em Cô gái Lam Hồng, Người con gái sông La, Tiếng đàn Ta Lư, Tình ca Tây Bắc, Lời ca dâng Bác. Sau thành công của dự án Áo giấy được thu âm tại Pháp với sự tham gia của nghệ sĩ guitar jazz Pháp gốc Việt Nguyên Lê và nhạc sĩ phối khí Jean-Sebastien Simonoviez, Quyền Thiện Đắc muốn hợp tác với Simonoviez để thu âm album Nhạc đỏ này song vẫn còn e ngại liệu một nhạc sĩ phương Tây có thể đồng cảm với các bài nhạc đỏ được chọn cho dự án? Chúng tôi đã ngồi lại, nghiên cứu lời bài hát và bối cảnh sáng tác của sáu bài rồi gửi cho Simonoviez và các nghệ sĩ tham gia. Quyền Thiện Đắc không ngờ, các nghệ sĩ châu Âu đã cảm nhận được chất nhạc đỏ theo một cách hoàn toàn mới để chuyển soạn. Và mới đây, một bản thu âm bản chuyển soạn Lời ca dâng Bác viết cho saxophone và dàn dây với các thành viên dây của Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia đã được phát trên VTV nhân dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ.
Khi trình bày bài tiểu luận này dưới dạng một báo cáo ở hội thảo Việt Nam học lần thứ 7 vào giữa tháng tám vừa qua, tôi cũng bất ngờ khi chủ đề nhạc đỏ nhận được sự quan tâm của rất nhiều bạn trẻ nhưng bất ngờ lớn nhất mà tôi may mắn có được là chia sẻ của một sinh viên người Thái trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN): giai điệu bài hát nhạc đỏ Đoàn vệ quốc quân do nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sáng tác vào năm 1945 cho đến nay vẫn được vang lên ở một vài tỉnh thuộc miền Nam Thái Lan. Sự tồn tại của một giai điệu nhạc đỏ hào hùng, tràn đầy tinh thần lạc quan ở ngoài biên giới Việt Nam, từ những truyền đạt ban đầu của những người Việt Nam sống ở vùng đất này, sau tám thập niên cho thấy sức sống bền bỉ của âm nhạc, khi đã đi vào lòng người.
Giờ đây, tôi có thể chắc chắn rằng nhạc đỏ đã tiếp sức cho sự ra đời của những dòng nhạc khác như nhạc nhẹ và jazz và đến lượt mình, nó đã được truyền thêm chất liệu mới để trở thành một di sản văn hóa đương đại sống động của Việt Nam. □
Thanh Nhàn dịch
Bài đăng Tia Sáng số 17/2025