Sự giao thoa giữa thơ tượng trưng Trung – Việt thập niên 1930
Cùng nảy mầm từ quá trình dung hợp văn hóa Đông Tây trong những năm 1930 nhưng sự sáng tạo riêng có đã đem đến cho thi ca Việt Nam và Trung Quốc những nét khác biệt độc đáo.

Phong trào cải cách văn học
Điểm chung nhất thi ca Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn này là đều hình thành trên nỗ lực cách tân thi ca hiện đại thông qua chủ nghĩa tượng trưng, xuất phát từ nhu cầu chuyển đổi văn hóa và khủng hoảng xã hội tương đồng.
Sự trỗi dậy của thơ tượng trưng Trung Quốc gắn liền với phong trào Tân Văn học Ngũ Tứ. Năm 1917, Hồ Thích công bố Văn học cải lương sơ nghị, đề xuất thay thế văn ngôn bằng bạch thoại, phá vỡ xiềng xích thi luật cổ điển, mở đường cho thơ mới. Thái Nguyên Bồi từng tổng kết về quá trình phát triển của phong trào Bạch thoại như sau: ‘Trước đây, mục đích sáng tác văn bạch thoại chỉ nhằm đơn giản hóa ngôn ngữ, giúp phổ biến tri thức đại chúng, chứ không phải để thay thế văn ngôn. Chủ trương ‘dùng bạch thoại thay thế văn ngôn’ cùng việc giương cao ngọn cờ cách mạng văn học, chỉ thực sự bắt đầu từ thời kỳ tạp chí Tân Thanh Niên’. Thập niên 1920, Lý Kim Phát du nhập chủ nghĩa tượng trưng Pháp vào Trung Quốc. Các tập thơ Vi Vũ (1925), Thực khách dữ hung niên (1927) của ông với hình ảnh trừu tượng và tình điệu suy tàn đã gây chấn động văn đàn, đánh dấu sự ra đời của ‘phái Thơ tượng trưng’. Đến thập niên 1930, nhóm ‘Hiện đại phái’ do Đới Vọng Thư, Biện Chi Lâm dẫn dắt đẩy mạnh quá trình bản địa hóa chủ nghĩa tượng trưng. Họ từ bỏ khuynh hướng Âu hóa của thế hệ trước, kết hợp thi pháp cổ điển (đặc biệt là ý cảnh u uẩn của thơ Đường giai đoạn cuối) để hình thành phong cách độc đáo: ‘thơ tự do + ý vị cổ điển’. Tạp chí Hiện đại do Thi Tẩn Tồn chủ biên trở thành diễn đàn lý luận, chủ trương thơ ‘không vần, tự do’ và ‘ý tứ mông lung’, nhấn mạnh sự hòa quyện giữa tính hiện đại và dân tộc tính.
Thủ pháp tượng trưng trong thơ Đường muộn là yếu tố gần gũi nhất với chủ nghĩa tượng trưng phương Tây trong truyền thống thơ Trung Hoa.
Trong khi đó, thơ tượng trưng Việt Nam khởi nguồn từ ‘Phong trào Thơ mới’ năm 1932. Nhà thơ Phan Khôi công bố bài viết “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” trên Báo Phụ nữ tân văn, phê phán thi luật cũ kỹ, kêu gọi cách tân hình thức và nội dung thơ ca. Phong trào phát triển qua ba giai đoạn: giai đoạn đầu (1932-1937) tập trung đoạn tuyệt với thơ cũ; giai đoạn giữa (1937-1939) tiếp thu mỹ học tượng trưng Pháp; giai đoạn cuối (1939-1945) hình thành các nhóm thơ tượng trưng như ‘Thơ Loạn’, ‘Xuân Thu Nhã Tập’. Dù chịu ảnh hưởng từ Baudelaire và Verlaine, thi nhân Việt không sao chép máy móc mà kết hợp chủ nghĩa tượng trưng với văn hóa bản địa: một mặt kế thừa truyền thống ý cảnh thơ cổ (chịu ảnh hưởng ngàn năm từ thơ Đường), Hoài Chân và Hoài Thanh từng nói ‘Đối với thơ ca Việt Nam, ảnh hưởng của thơ Đường luôn giữ vị thế mạnh mẽ. Trong số những thi nhân chịu ảnh hưởng từ thơ Pháp, vẫn có một bộ phận quay trở về với thơ Đường’mặt khác dung nạp triết lý Phật giáo và hình ảnh làng quê, tạo nên hệ mỹ học vừa hiện đại vừa mang tính Đông phương hàm súc.
Thi phong Đường muộn trong thơ tượng trưng Trung Quốc
‘Hiện đại phái’ là “cây gậy tiếp sức” của trường phái Nguyệt Tân và trường phái Tượng trưng sơ kỳ trên thi đàn Trung Quốc. Đồng thời, sự hình thành của nó cũng mang đặc trưng kế thừa từ truyền thống thơ ca cổ điển Trung Hoa. Biện Chi Lâm từng nhận định: ‘Thơ Hiện đại phải không ngần ngại kết nối với truyền thống lâu dài của thơ ca dân tộc, tận dụng di sản nghệ thuật được lưu truyền qua biến đổi thể tài qua hàng ngàn năm. Xu hướng này đảo ngược việc tập trung tiếp nhận phong cách thơ phương Tây sang chú trọng kế thừa phong vị thơ cổ Trung Hoa.’ Trường phái Hiện đại trong việc tiếp thu phong cách thơ cổ chủ yếu nghiêng về thơ Đường muộn.

Về ‘thi quần Đường muộn’, dưới sự tổng hợp tư liệu và nền tảng lý luận, giới học giả hiện đại đã phân loại thành nhiều dạng khác nhau. Dư Thụ Thành chia thi quần Đường muộn thành hai nhánh lớn: ‘Một nhánh là nhóm thi nhân hàn sĩ, kế thừa phong cách ‘Dao – Giả’ và ‘Giao hàn Đảo sấu’; nhánh còn lại là nhóm thi nhân tài tử, tiêu biểu có Ôn Đình Quân, Lý Thương Ẩn và Đỗ Mục’ Trong khi đó, Triệu Vinh Úy phân chia thơ Đường muộn thành năm loại: ‘Thi quần nhàn nhã (lấy Bạch Cư Dị làm đại diện): Thơ ca tuyên dương sự thanh đạm, tâm hướng Phật-Lão, phảng phất khí chất tiêu cực.Thi quần khổ ngâm (Cố Phi Hùng, Dao Các, Lưu Đắc Nhân): Theo đuổi phong cách bình dị, thể hiện tinh thần tùy duyên an phận. Thi quần cách luật (Hứa Hồn, Lưu Thương, Trương Hộ): Chú trọng kết cấu chỉnh chu, âm luật trau chuốt, hướng đến nghệ thuật thơ luật hoàn mỹ. Thi quần tài tử (Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân): Thơ ca ai luyến diễm lệ, thanh lệ uyển chuyển, đạt đến đỉnh cao nghệ thuật thơ Đường muộn. Thi quần hàn sĩ (Bì Nhật Hưu, Lục Quy Mông): Thơ như lời cảnh tỉnh thời mạt Đường, đầy phẫn nộ và sắc thái châm biếm sâu cay’. ‘Xét từ truyền thống thơ Trung Hoa, các nhà thơ Hiện đại chủ yếu kế thừa và phát triển ‘mạch thơ thuần túy’ của Lý Thương Ẩn và Ôn Đình Quân từ Đường mạt – Ngũ đại’ Thơ Lý Thương Ẩn ẩn chứa một thế giới tâm linh cá nhân sâu thẳm, đề cao tính phi chức năng trong sáng tạo. ‘Từ góc độ thi sử, thế giới tâm hồn mà Lý Thương Ẩn biểu đạt có thể sánh ngang với thế giới lý tưởng của Lý Bạch và thế giới hiện thực của Đỗ Phủ, tạo thành ‘tam trụ’ của thi ca Trung Hoa.’ Sự mơ hồ đa nghĩa và cách diễn đạt hàm súc trong thơ ông dẫn người đọc vào không gian kỳ ảo. Việc vận dụng linh hoạt hình tượng và điển cố phá vỡ trật tự không-thời gian, tạo nên giao hưởng độc đáo. Ngôn ngữ ai luyến, tình tứ dệt nên thế giới mộng ảo ‘tựa mưa tựa sương lại tựa gió’, thậm chí mở đường cho thể loại ‘thơ vô đề’.
Ôn Đình Quân, được xem là ‘tổ sư của Hoa Gian phái’, có thành tựu xuất sắc cả trong thơ và từ, đặc biệt là thể từ để lại ảnh hưởng sâu rộng cho hậu thế. Thơ từ của ông gắn liền với cuộc sống phóng túng nơi lầu xanh, đắm chìm trong thanh sắc. Phần lớn tác phẩm được viết để ca kỹ hát ngâm, nên mang tính giải trí văn học rõ rệt. Thơ từ của Ôn Đình Quân chú trọng kích thích giác quan, thường miêu tả vẻ đẹp trang điểm của nữ tử, châu báu lấp lánh, kết hợp với hình ảnh thiên nhiên. Điều này phá vỡ truyền thống ‘mượn vật tỏ tình’ của thơ cổ điển Trung Hoa – Ôn Đình Quân hướng đến việc đơn thuần khơi gợi cảm xúc cực đỉnh từ giác quan.
Thơ từ của Ôn Đình Quân và Lý Thương Ẩn kế thừa và cách tân nghệ thuật thơ truyền thống. Cả hai đều theo đuổi ‘nghệ thuật thơ thuần túy phi chức năng’, phá vỡ lối ‘mượn cảnh ngụ tình’ truyền thống, lấy thơ ca làm phương tiện khai phá thế giới tinh thần cá nhân. Ngôn ngữ thơ kế thừa vẻ lộng lẫy của văn phong Lục triều, trau chuốt tỉ mỉ, giàu tính nhạc và sức gợi hình. ‘Lý Thương Ẩn là người tổng kết văn học nhã phong truyền thống, còn Ôn Đình Quân là người mở đường cho văn học tục phong mới mẻ.’
‘Phong trào Thơ Mới chịu ảnh hưởng rõ rệt từ văn học phương Tây, điều này đã được công nhận. Tuy nhiên, nhiều tác phẩm Thơ Mới cũng chịu tác động từ văn học cổ điển Trung Hoa, đứng đầu là thơ Đường’. (Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ)
Các nhà thơ Hiện đại phái đã tham khảo, mô phỏng và sáng tạo từ thơ Đường muộn, thuộc phạm trù ‘lưu truyền học’ (diaspora) trong lý thuyết văn học so sánh. ‘Ảnh hưởng văn học đối với một tác giả tạo nên yếu tố rộng lớn và hữu cơ trong tư duy/sáng tác. Không có nó, tác phẩm không thể tồn tại như hiện tại, hoặc ở giai đoạn đó, tác giả sẽ không viết ra tác phẩm như vậy.’
Hiện đại phái là một thi quần rộng lớn. Xét tổng thể, phần lớn thơ của họ đều phảng phất bóng dáng thơ Đường muộn, nhưng mỗi thi nhân lại tiếp thu theo cách riêng để giữ nguyên sắc thái sáng tạo. Dựa trên văn bản cụ thể, bài viết lấy ba nhà thơ tiêu biểu là Đới Vọng Thư, Biện Chi Lâm, Hà Kỳ Phương làm ví dụ, nhằm khám phá mối liên hệ giữa Hiện đại phái và thi phong Ôn – Lý (Đường muộn).
Thủ pháp tượng trưng trong thơ Đường muộn là yếu tố gần gũi nhất với chủ nghĩa tượng trưng phương Tây trong truyền thống thơ Trung Hoa. Giai đoạn đầu, thơ Đới Vọng Thư chịu ảnh hưởng sâu từ chủ nghĩa tượng trưng và lãng mạn Anh-Mỹ. Sau khi du học Pháp trở về (giai đoạn sáng tác trung-hậu kỳ), ông tìm kiếm sự cân bằng – hoặc dung hợp – giữa truyền thống thơ Trung Hoa và tư tưởng văn học phương Tây. Từ tập Vọng Thư Thảo, nghệ thuật thơ Đới Vọng Thư không còn bó hẹp trong bất kỳ trào lưu nào, mà hình thành phong cách độc lập. Trong bối cảnh tiếp thu Đông-Tây, màu sắc Đường muộn trong thơ ông cần được truy vết chi tiết.

Thơ từ của Ôn Đình Quân và Lý Thương Ẩn sử dụng sự liên kết nhảy vọt giữa các hình tượng để tạo nên logic câu thơ khó giải thích, khiến vẻ đẹp mông lung nảy sinh tự nhiên, đồng thời gây ấn tượng thị giác và cộng hưởng cảm xúc mạnh mẽ. Ví dụ trong câu:
‘Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ / Lam điền ngọc noãn nhật sinh yên.’
Sử dụng điển tích ‘Giao nhân khấp châu’, ‘Lam điền nhật noãn, lương ngọc sinh yên’, kết hợp với các hình ảnh khác, độc giả khó lý giải mối liên hệ giữa chúng vì không có chỉ dẫn rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận đây là chuỗi ‘ký hiệu đa nghĩa’ liên quan đến chủ đề thơ. Cách thức này khác biệt hoàn toàn với thơ truyền thống (dùng hình tượng để giải thích ý tứ).
Trong nghiên cứu mối quan hệ giữa Hiện đại phái và thơ Đường muộn, Biện Chi Lâm là bằng chứng thuyết phục nhất. Ông thẳng thắn thừa nhận ảnh hưởng của thi phong Đường muộn: ‘Ở giai đoạn đầu, thơ tôi đã vô tình mang âm hưởng mạt thế của thơ từ Đường mạt – Nam Tống.’ Tập thơ Vô đề của ông phản ánh rõ ràng ảnh hưởng từ ‘thơ vô đề’ của Lý Thương Ẩn. Phong cách thơ Biện Chi Lâm luôn theo đuổi sự tinh tế và hàm súc ngôn từ, tận dụng điển tích để mài giũa thi ngữ – điểm tương đồng lớn với Lý Thương Ẩn.
‘Ở giai đoạn Lời tiên tri, Hà Kỳ Phương theo đuổi chủ nghĩa duy mỹ và sự thuần khiết trong thi pháp. Chịu ảnh hưởng từ Baudelaire, Valéry, Eliot, cùng trải nghiệm tinh tế với thơ từ Đường mạt – Ngũ đại (Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân, Lý Dục), thơ ông trau chuốt hình tượng, dụng công nhịp điệu, lắng nghe tiếng lòng thăm thẳm, bóng khe, hoa mộng. Gọi ông là ‘thi nhân khổ ngâm’ cũng không quá lời.’
Hiện đại phái nhiệt thành tôn sùng phong cách thơ ai luyến diễm lệ của Ôn Đình Quân và Lý Thương Ẩn thời Đường muộn, phá vỡ lối biểu đạt ‘cảnh tình giao hòa’ truyền thống, chuyển hướng sang sự mông lung hàm súc. Ngôn ngữ thơ họ tinh tế, tráng lệ, coi trọng việc viết phi chức năng, tập trung khai phá thế giới tâm linh cá nhân. Những đặc điểm này khác biệt với truyền thống thơ cổ, nhưng Hiện đại phái không hoàn toàn loại bỏ nội dung cổ điển ngoài thi phong Đường muộn. Trong việc sử dụng hình tượng, họ kế thừa hình tượng truyền thống từ thơ cổ, khiến thơ ca mang khí chất tao nhã. Ví dụ: ‘tàn dương’, ‘hoàng hôn’, ‘trăng’, ‘lá rụng’, ‘đêm u tịch’, ‘đêm thu’, ‘đèn xanh’…
Trong thơ Đới Vọng Thư, việc chồng chất các hình tượng sầu cảm truyền thống tạo nên phong cách suy tàn tương đồng với thơ Đường muộn. Tiêu biểu như các bài Dưới ánh tà dương, Thập tứ hành. Hà Kỳ Phương cũng tài tình sử dụng những hình tượng thanh lạnh cổ điển như ‘đêm lạnh’, ‘mưa buồn’, ‘giấc mộng bạc’, ‘cây ngô đồng’, ‘sương phủ ngói’, xây dựng cảnh giới thơ đồng điệu với vẻ ai luyến của thơ Ôn – Lý, như các bài Dưới trăng, Đừng giặt áo hồng.
Sự tiếp thu nghệ thuật thơ Đường của thơ tượng trưng Việt Nam những năm 1930 còn thể hiện ở việc vận dụng hình tượng và ngôn từ, đây là vấn đề không thể tránh khỏi của các nhà thơ tượng trưng Việt Nam.
Lựa chọn hình tượng trong thơ Hiện đại phái là kết quả của quá trình thấm nhuần văn hóa thơ truyền thống ngàn năm Trung Hoa. Dù lấy thi phong Đường muộn làm trọng tâm thẩm mỹ, dấu ấn cổ điển trong thơ họ là không thể phủ nhận.
Ảnh hưởng của thơ Đường đối với văn học Việt Nam
Thơ Đường là sự kết tinh của thi ca cổ đại Trung Quốc, kế thừa nghệ thuật thơ ca từ thời Ngụy-Tấn đến Nam-Bắc triều. Nhờ chính sách khai minh, xã hội phồn thịnh và sự đề cao văn chương dưới thời Đường, thi ca phát triển rực rỡ, đại diện cho thành tựu cao nhất trong lịch sử thơ ca Trung Hoa.
Từ năm 214 TCN, thời kỳ Tần-Hán, nhiều trí thức Trung Nguyên di cư đến Việt Nam, mở trường học, truyền bá văn hóa Trung Hoa. Một kênh quan trọng khác là các nhà sư Việt sang Trung Nguyên học Phật. ‘Các tăng nhân thời ấy học thức uyên thâm, am hiểu sâu sắc nghệ thuật thơ Hán, nhiều người giỏi làm thơ và để lại tác phẩm phong phú. Họ không chỉ thành thạo văn chương mà còn nghiên cứu sự hòa quyện giữa thiền và văn học, gián tiếp ảnh hưởng đến tư tưởng văn học Việt Nam.’ Thơ Đường cũng theo chân họ du nhập vào Việt Nam, được các thi nhân địa phương nhiệt liệt đón nhận và mô phỏng. Có thể nói, thơ cổ điển Việt Nam và thơ Đường có mối quan hệ như hình với bóng.

Dù phong trào Thơ Mới Việt Nam thế kỷ XX chủ yếu tiếp nhận tư tưởng văn học phương Tây, song ảnh hưởng của thơ Đường vẫn gián tiếp hiện diện. Nhà phê bình văn học Việt Nam Phan Cự Đệ từng nhận định: ‘Phong trào Thơ Mới chịu ảnh hưởng rõ rệt từ văn học phương Tây, điều này đã được công nhận. Tuy nhiên, nhiều tác phẩm Thơ Mới cũng chịu tác động từ văn học cổ điển Trung Hoa, đứng đầu là thơ Đường.’ Các nhóm thơ Loạn thi phái, Xuân Thu Nhã Tập, Dạ Đài – sản phẩm của Thơ Mới – dù tiếp thu chủ nghĩa tượng trưng phương Tây, vẫn có thi nhân như Vũ Hoàng Chương, Chế Lan Viên, Đoàn Phú Tứ, Huy Cận… chịu ảnh hưởng thi phong Đường.
Trong số các nhà thơ tượng trưng Việt Nam thập niên 1930, Vũ Hoàng Chương (thuộc nhóm Dạ Đài) chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Lý Bạch – thi tiên đời Đường. Thơ Lý Bạch đậm chất tiên phong đạo cốt, đề cao sự phóng khoáng, hòa mình vào thiên nhiên, xem đời như mộng ảo. Vũ Hoàng Chương kế thừa tinh thần này qua việc mô phỏng cảnh giới không linh trong thơ ông. Ví dụ, Bài thơ Chân hứng của Vũ Hoàng Chương tái hiện truyền thuyết ‘Lý Bạch bắt trăng’. Trong thơ, việc Lý Bạch ‘bắt trăng’ được diễn giải như hành trình thoát tục, theo đuổi giấc mộng tiêu dao, ẩn dụ cho sự từ bỏ hồng trần.
Vũ Hoàng Chương cũng sáng tác nhiều bài về rượu như Say đi em, Túy hậu cuồng ngâm, Con tàu say. Tuy nhiên, ‘say’ trong thơ ông khác biệt với Lý Bạch: Say của Vũ Hoàng Chương là cách trốn tránh hiện thực đất nước loạn lạc, còn say của Lý Bạch (sống dưới thời thịnh Đường) là phương thức siêu việt thực tại, hướng đến cõi thái hư.
Thơ tượng trưng Trung Quốc tập trung khai thác tinh thần ‘thuần túy nghệ thuật’ và sự mơ hồ đa nghĩa của thơ Đường muộn; trong khi thơ tượng trưng Việt Nam hướng đến việc tái tạo hệ thống hình tượng và thể thơ cổ điển như một phương thức bảo tồn bản sắc dân tộc giữa bối cảnh thuộc địa.
Sự tiếp thu nghệ thuật thơ Đường của thơ tượng trưng Việt Nam những năm 1930 còn thể hiện ở việc vận dụng hình tượng và ngôn từ, đây là vấn đề không thể tránh khỏi của các nhà thơ tượng trưng Việt Nam. Những hình tượng thường dùng trong thơ Đường như ‘liễu dương’, ‘trăng’, ‘gió xuân’, ‘ngô đồng’, ‘hoa rụng’ đều được các thi nhân Việt Nam tiếp nhận vào sáng tác. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích trong phạm vi tác phẩm của các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương.
‘Trăng’ là hình tượng thơ Đường xuất hiện nhiều nhất trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên. Trong thơ Đường, trăng thường tượng trưng cho sự tinh khiết, mộng ảo, đoàn viên và cái đẹp. Theo thống kê , ‘trăng’ xuất hiện trong ‘Điêu tàn’ (11 bài), ‘Tinh huyết’ (14 bài), và ‘Thương đau’ (33 bài). Ý nghĩa biểu tượng của ‘trăng’ trong mắt các nhà thơ tượng trưng Việt Nam có sự khác biệt. Với Hàn Mặc Tử, trăng là vẻ đẹp mộng mơ, xa vời: ‘Có ai nuốt ánh trăng vàng/Có ai nuốt cả bóng nàng Tiên Nga/ Đã thèm cái giấc mơ hoa’ (‘Uống trăng’). Thế giới thơ Chế Lan Viên nghiêng về u tối, ma quái, thơ ông được dệt từ những hình ảnh kinh dị như xương trắng, sọ người, máu, toát lên hơi thở điên loạn. Vì thế, trăng trong thơ Chế Lan Viên là hiện thân của sự lạnh lẽo, vô hồn, ‘cấu kết’ với cái chết và yêu ma ‘Ta cởi truồng ra! Ta cởi truồng ra!/ Ngoài kia trăng sáng chảy bao la/ Ta nhảy vào quay cuồng thôi lăn lộn/ Thôi ngụp lặn trong ánh vàng hỗn độn/ Cho trăng ghì, trăng riết cả làn da’ (‘Tắm trăng’). Trong khi đó, thơ Bích Khê, trăng lại tượng trưng cho sự cao quý, tinh tế, hòa quyện cùng hương hoa, âm nhạc, tạo nên bức tranh thơ mộng mị: ‘Đây bóng lá ánh trăng tràn sấp ngã/ Một cô hồn có lẽ thoáng đi qua/ Sao lốm đốm trên cây nằm lả tả./ Một chuỗi cười rồ rộ ở trong hoa’ (‘Người say rượu’).
Một số nhà thơ tượng trưng còn mượn từ ngữ thơ Đường. Xem trích đoạn ‘Đà Giang’ của Vũ Hoàng Chương:
‘Đâu đó Tầm Dương, sầu lắng đợi/Nghe hồn ly phụ khóc trên tơ/Chén đã vơi mà ngập gió sương……/Men càng ngây ngất ý Tầm Dương/Gót sen kỹ nữ đâu bên gối/Tìm ái ân xưa, dễ lạc đường!’. Dù nhan đề là ‘Đà Giang’, bài thơ hai lần nhắc đến Tầm Dương – địa danh xuất hiện nhiều trong thơ Đường, nổi tiếng nhất là ‘Tỳ Bà Hành’ của Bạch Cư Dị. Tâm tư trong ‘Đà Giang’ giống ‘Tỳ Bà Hành’, đều viết về bi kịch tình yêu của kỹ nữ. Lại xem bài ‘Băng Tuyết’ của Bích Khê: ‘Ai cho em nguyệt Chiêu Dương/Chớ mây Hoàng Hạc xin nhường thi nhân’. ‘Nguyệt Chiêu Dương’ mượn từ câu ‘Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc/Do đới Chiêu Dương nhật ảnh lai’ (‘Trường Tín Oán’ – Vương Xương Linh). ‘Mây Hoàng Hạc’ là sáng tạo lại từ hình ảnh trong ‘Hoàng Hạc Lâu’ của Thôi Hiệu: ‘Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ/ Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu / Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản / Bạch vân thiên tải không du du’.
Biểu hiện khác của việc tiếp thu thơ Đường trong thơ tượng trưng Việt Nam thập niên 1930 là thể thơ. Thể loại thơ Đường chủ yếu gồm cổ phong, tuyệt cú và luật thi. Cổ phong chia thành ngũ ngôn, thất ngôn. Tuyệt cú gồm ngũ ngôn tuyệt cú và thất ngôn tuyệt cú. Luật thi chia thành ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, dựa trên số câu lại chia thành bát cú, tuyệt cú và bài luật. Thơ Đường luật nổi tiếng nghiêm ngặt về niêm luật, vần, thanh điệu, đối ngẫu. Hầu hết thi nhân phong trào Thơ Mới Việt Nam đều sáng tác thơ luật, kể cả các nhóm ‘Loạn thi phái’, ‘Xuân Thu Nhã Tập’, ‘Dạ Đài’. Họ không thử nghiệm tất cả thể luật mà ưa chuộng thất ngôn bát cú, thất ngôn tuyệt cú, ngũ ngôn tuyệt cú. Hàn Mặc Tử và Bích Khê là hai nhà thơ tượng trưng tiêu biểu trong việc vận dụng Đường luật. Tác phẩm tiêu biểu của họ gồm ‘Xuân’, ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ (Hàn Mặc Tử), ‘Cảm hứng’, ‘Tiếng ca’ (Bích Khê).
Do đó, dù cùng chịu ảnh hưởng từ thơ Đường, cách tiếp nhận của thơ tượng trưng Trung-Việt mang những sắc thái riêng biệt. Thơ tượng trưng Trung Quốc tập trung khai thác tinh thần ‘thuần túy nghệ thuật’ và sự mơ hồ đa nghĩa của thơ Đường muộn; trong khi thơ tượng trưng Việt Nam hướng đến việc tái tạo hệ thống hình tượng và thể thơ cổ điển như một phương thức bảo tồn bản sắc dân tộc giữa bối cảnh thuộc địa. Sự giao thoa này không chỉ làm phong phú diện mạo thi ca hai nước mà còn khẳng định vai trò trung gian của thơ Đường trong hành trình hiện đại hóa văn học châu Á. □
——–
* NCS, Khoa ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội
Bài đăng Tia Sáng số 14/2025