Thảm kịch núi lửa không dập tắt nổi sự sống ở Pompei

Câu chuyện về sức sống mãnh liệt có thể giúp con người vượt qua cả thảm họa thiên tai mới được tái khám phá từ đống tro tàn ở Vesuvius.

Một nạn nhân ở Pompeii sau thảm kịch núi lửa Vesusvius phun trào vào năm 79 sau Công nguyên. Ảnh: Shutterstock.

Thế giới ngày một bất định. Thiên tai địch họa thi nhau giáng xuống Trái đất, chỉ cần một cơn lũ quét, một trận động đất hay một cơn bão nhiệt đới đã đủ để tiêu tán gia sản, biến dạng cả một vùng rộng lớn và bứng con người khỏi quê hương. Đôi khi, người ta bàng hoàng trước thực tại đầy tai ương, nhớ về những ngày tươi đẹp, êm đềm trong quá khứ mà ngỡ như xa xôi lắm, tưởng như mới đột nhiên tỉnh giấc khỏi một giấc mơ quá đẹp.

Sự bất định của thực tại khiến các nhà nghiên cứu trên thế giới đặt nhiều câu hỏi về việc liệu có giới hạn nào cho niềm hy vọng và sức sống của con người? Liệu sự gắn bó của họ với mảnh đất quen thuộc có phải là mãi mãi? Liệu thảm họa có đủ sức bứng con người khỏi đó để đi tìm vùng đất định cư mới? Việc trả lời những câu hỏi đó có thể đem lại nhiều gợi ý về các chiến lược sinh tồn của con người trong hiện tại và tương lai.

Để đi tìm câu trả lời, các nhà nghiên cứu tìm về với quá khứ và những trường hợp điển hình mà lịch sử loài người đã ghi nhận. Một trong số đó là thảm họa núi lửa ở Pompeii vào năm 79 sau Công nguyên. Ngày nay, Pompeii là một trong những vùng đất bị hủy diệt nổi tiếng bậc nhất thế giới. Từ thời điểm núi lửa Vesuvius phun trào vào cho đến thế kỷ thứ mười tám, Pompeii và thành phố lân cận Herculaneum đã nằm dưới lớp tro bụi và nham thạch dày đặc. Các cuộc khai quật đã được tiến hành từ ba trăm năm trước, hé lộ những bí mật về các nạn nhân và cuộc sống của họ ở Pompeii trước thảm họa. Nhưng liệu có ai sống sót sau thảm họa?

Việc đặt ra khả năng này dường như đi ngược lại quan niệm phổ biến. Thông thường, người ta vẫn cho rằng những sự kiện thảm họa như Pompeii là ngày tận thế, chứng kiến sự tuyệt diệt của con người cũng như các dạng thức sống khác. Ví dụ trong các bộ phim truyền hình như “Doctor Who” hay Loki, những người sống ở Pompeii và Herculaneum đều bị diệt vong bởi nham thạch, nhiệt độ…

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thì nghĩ khác, họ nêu giả thuyết về khả năng vẫn có người sống sót sau thảm họa kinh hoàng. Giáo sư lịch sử Steven L. Tuck, ĐH Miami, Mỹ, sau một thập kỷ nghiên cứu, đã viết cuốn sách mới Escape from Pompeii: The great eruption of mount Vesuvius and its survivors (NXB Đại học Oxford, 2025) nhằm lý giải điều này, thông qua các bằng chứng khảo cổ học, tư liệu và cả văn học. “Câu chuyện về vụ phun trào của núi Vesuvius không còn là sự hủy diệt nữa; nó còn bao gồm cả câu chuyện của những người sống sót sau vụ phun trào và tiếp tục gây dựng lại cuộc sống”, ông viết trên The Conversation.

Bằng chứng về sự sống sót

Pompeii và Herculaneum là hai thành phố thịnh vượng nằm bên bờ biển Ý, ngay phía Nam Naples. Pompeii lớn hơn với khoảng 30.000 cư dân, một xã hội giàu có với nền công nghiệp phát triển và các mạng lưới chính trị, tài chính năng động. Herculaneum, với dân số khiêm tốn chỉ bằng một phần sáu nhưng cũng đáng nể với một đội tàu đánh cá lành nghề và các xưởng chế tác đá cẩm thạch. Cả hai nền kinh tế này đều hoạt động xoay quanh các căn biệt thự sang trọng của giới quý tộc La Mã hoặc các nô lệ đã được giải phóng giàu có.

Vụ phun trào vào ngày 24 tháng 8 năm 79 sau Công nguyên từ núi lửa Vesuvius đã dội những khối đá vụn, nham thạch nóng bỏng và tro bụi cao tới 20 dặm (tương đương 32,1 km) vào không khí rồi tràn xuống, chôn vùi Pompeii và Herculaneum sau 18 giờ hoạt động mãnh liệt. Câu hỏi mà cuốn sách của GS. Steven L. Tuck đặt ra đã dẫn theo vô số các câu hỏi liên quan: nếu có người sống sót thì họ là ai, họ tái định cư nơi nào, trong những điều kiện gì và họ đã tái thiết cuộc sống của mình thời kỳ hậu phun trào như thế nào? Và cuối cùng thì sự sống sót này nói với chúng ta điều gì về thế giới La Mã và vai trò của chính phủ, mạng lưới xã hội và nền kinh tế La Mã?

Thật không may là không có cặp mắt nào chứng kiến sự sống sót sau thảm họa ở Pompeii hay Herculaneum. Những gì gần nhất mà chúng ta có là hai bức thư từ Pliny Trẻ gửi nhà sử học Tacitus, kể về những trải nghiệm của mình và của người chú mình trong vụ phun trào. Đáng chú ý, Pliny Trẻ đã ghi lại những phản ứng và hành động đầy cảm xúc trước vụ phun trào tại Misenum: những người sống cách đó khoảng 28 dặm (45 km) về phía Tây theo đường bộ, những người rất đau khổ vì thảm họa và mở rộng vòng tay đón người thân thoát khỏi đó. Hành vi của họ có lẽ giống với những người ở Pompeii và Herculaneum. “Có thể nghe thấy tiếng gào thét của phụ nữ, tiếng khóc của trẻ sơ sinh, tiếng hét của đàn ông; một số gọi cha mẹ, con cái hoặc vợ, cố gắng nhận ra tiếng họ trong sự hỗn loạn”, bức thư viết.

Những tàn tích còn sót lại của thành phố lân cận Pompeii, Herculaneum ngày nay.

Người chết ở khắp nơi trong các thành phố đổ nát này nhưng những gì các nhà khảo cổ phát hiện thì mới chiếm một phần nhỏ dân số, và nhiều đồ vật tưởng vĩnh viễn nằm trong tro bụi đã biến mất: xe ngựa biến mất khỏi chuồng ngựa, tàu thuyền mất tích khỏi bến cảng, và két sắt bị lấy sạch tiền bạc và trang sức. Tất cả những điều này cho thấy rằng nhiều người – nếu không muốn nói là hầu hết – người dân trong thành phố có thể trốn thoát nếu họ chạy trốn đủ sớm. Một số nhà khảo cổ học luôn cho rằng có người đã trốn thoát. Nhưng việc tìm kiếm họ chưa bao giờ là ưu tiên hàng đầu. “Cả ở Pompeii và Herculaneum, chúng tôi đều tìm thấy bằng chứng gián tiếp về sự sống sót của con người, ít nhất trong những giai đoạn đầu của vụ phun trào. Rất nhiều bằng chứng này chưa được ghi nhận đúng với bản chất đó là bằng chứng của sự vắng mặt”, giáo sư Tuck nêu cái nhìn mới của mình về sự vắng mặt của cả người lẫn đồ vật quan trọng trên Live Science

Thật không khó ngạc nhiên về việc bằng chứng này trước đây lại không được nghiên cứu kỹ lưỡng. Hàng trăm nghìn hiện vật, cả nguyên vẹn lẫn bị tan nát, đều được tìm thấy ở hầu khắp mọi nơi trong hai thành phố – trong nhà, ngoài sân, ngoài đường phố và trong tất cả các dạng công trình xây dựng. Tuy nhiên trong cái tổng thể dường như quá hỗn loạn đó, sự vắng mặt của những đồ dùng hữu dụng chỉ dấu ít nhất đã có những người sống sót ban đầu  và họ đã lên kế hoạch rời khởi hai thành phố.

Bản thân mẫu hình của sự phá hủy, thi thể và cả những đồ vật bị mất và các loại động vật dùng để vận chuyển như ngựa ở Herculaneum và Pompeii đều đưa ra bằng chứng rằng nhiều cư dân ở đó đã thoát thân an toàn. Những bằng chứng gợi ý khác đến từ chuỗi sự kiện phun trào và từ thời điểm phun trào và địa điểm của khu chợ bên ngoài thành phố. Cùng với nhau, chúng tạo ra một hình mẫu ủng hộ ý tưởng là con người đã tạo ra chúng để cho cuộc sống mới sau thảm họa. Cuộc tìm kiếm những người sống sót do đó là việc tìm kiếm bằng chứng về việc tái định cư của họ.

Các nhà nghiên cứu đã áp dụng một cách tiếp cận khác. “Tôi đã tạo ra một phương pháp để xác định liệu có những người sống sót không. Tôi lấy những cái tên La Mã đặc trưng của Pompeii hoặc Herculaneum – chẳng hạn như Numerius Popidius và Aulus Umbricius – và tìm kiếm những người có tên tương tự sống ở các cộng đồng lân cận trong giai đoạn sau vụ phun trào. Tôi cũng tìm kiếm thêm bằng chứng, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng được cải thiện ở các cộng đồng lân cận để hỗ trợ người di cư”, giáo sư Tuck chia sẻ trên The Conversation về phương pháp tìm kiếm mới mẻ của mình.

Không dễ để tìm được những điều cần tìm trong một đống dữ liệu rối rắm và dường như mơ hồ dấu vết. Tuy nhiên, sau tám năm lùng sục cơ sở dữ liệu của hàng chục nghìn chữ khắc La Mã trên nhiều địa điểm, từ tường thành đến bia mộ, giáo sư Tuck đã tìm thấy bằng chứng về hơn 200 người sống sót ở 12 thành phố. Các đô thị này chủ yếu nằm trong khu vực Pompeii, nhưng thường nằm ở phía Bắc núi Vesuvius, bên ngoài vùng bị tàn phá nặng nề nhất. Những người sống sót thật đa dạng, cả giàu và nghèo, cả đàn ông và đàn bà, trẻ em. 

Làm cách nào mà họ có thể may mắn thoát khỏi thảm cảnh? Thật khó xác định nhưng dường như để làm được thì họ phải sống ở vùng ven đô, nơi việc chạy đi có vẻ dễ hơn. Những người khác thì có vẻ như ở xa thành phố vào ngày núi lửa phun trào, có thể là đến ngôi chợ ở Puteoli. 

Cuộc sống mới

Vậy cuộc sống của những người sống sót ra sao, liệu họ đi đâu, họ có trở về nơi cũ không? Đó là những câu hỏi căn bản về quyết định của những người sống sót sau thảm họa và đem lại cho hậu thế thông tin về cách ứng xử, thích nghi với cuộc sống hậu thảm họa của con người hai nghìn năm trước. 

Hóa ra, con người bao giờ cũng thích sự thân thuộc. Phần lớn những người sống sót không đi quá xa nơi họ từng sinh sống: họ tái định cư ở bờ biển Campania, chủ yếu dọc vùng duyên hải từ Naples theo hướng Bắc đến Puteoli, Misenum, và Cumae. Một số lượng nhỏ hơn thì đến nơi xa hơn như Capua, Nola, Nuceria, và Aquinum, và một nhóm lớn hơn ở Ostia. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu tìm thấy họ trong mười hai cộng đồng khác nhau và khám phá chi tiết về cách họ xây dựng lại cuộc sống, sinh kế và bản sắc sau khi chạy trốn khỏi núi lửa. “Có lẽ, chúng ta có thể truy dấu những con người này xa hơn, tới miền Trung Ý, Tây Ban Nha, Romania. Những nghiên cứu mới về người tị nạn và hành trình của họ, ảnh hưởng lên cộng đồng mới gia nhập của họ và cuộc sống giữa những cộng đồng mới của họ có thể đem lại cho chúng ta hiểu biết về cuộc sống của những người sống sót sau một thảm họa tự nhiên kinh hoàng và, trong một số trường hợp, tái xây dựng cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng nhưng không hề mất đi bản sắc và văn hóa mà họ mang theo”, giáo sư Luck cho biết trên Live Science.

Bằng chứng mà ông và cộng sự tìm được cho thấy những người may mắn sống sót đã tái định cư ở những cộng đồng mà có lẽ họ đã tự lựa chọn dựa trên những mạng lưới kinh tế và xã hội của mình mà không hoàn toàn dựa vào sự hỗ trợ của chính quyền. “Dường như hầu hết những người sống sót đều muốn ở càng gần Pompeii càng tốt. Họ thích định cư cùng những người sống sót khác, và dựa vào các mạng lưới xã hội và kinh tế từ các thành phố ban đầu khi tái định cư”, giáo sư Tuck nhận xét. 

Dĩ nhiên chính quyền cũng không bỏ mặc họ khi thực thi những chính sách ứng phó và hỗ trợ để giúp các nạn nhân núi lửa bằng việc cung cấp nhà ở, cơ sở hạ tầng và dịch vụ mới. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra điều này khi xem xét các cơ sở hạ tầng công. Hoàng đế La Mã Titus đã ban kinh phí cho các thành phố tiếp nhận người di cư sau thảm họa. Trên thực tế, những đồng tiền này là của Pompeii và Herculaneum – về cơ bản chính quyền lấy tiền của những người chết vì thảm họa mà không có người thừa kế và trao cho các thành phố đó, dẫu cho hoàng đế Tittus tự nhận công lao về mình. Và điều đó có nghĩa là “những chủ nhân thực sự của đồng tiền rót vào các công trình công ích này không bao giờ được ghi nhận”, theo giáo sư Tuck. 

Số phận của những người tị nạn thiên tai cũng khác nhau. Một số gia đình may mắn khi thoát thân vào lúc đầu xảy ra vụ phun trào đã nỗ lực xây dựng cuộc sống mới ở những cộng đồng dân cư mới. Thành viên một số gia đình sống sót đã kết hôn với những người cùng cảnh ngộ, rồi tranh cử vào các chức vụ công ở thành phố mới, đóng góp hào phóng cho cộng đồng của họ và hòa nhập trong khi vẫn giữ được bản sắc. “Một trong số những người sống sót, một người đàn ông tên là Cornelius Fuscus sau này đã qua đời ở nơi mà ngày nay là Romania trong một cuộc hành quân. Họ dựng một bia mộ khắc tên ông ở đó và ghi ông đến từ Pompeii, sau đó sống ở Naples, nơi ông gia nhập quân đội”, giáo sư Tuck trả lời phỏng vấn.

Dù chính quyền La Mã đã hỗ trợ nhưng những công việc thực sự để thích ứng với cuộc sống mới là do chính nỗ lực của những người sống sót. Một trong số đó là gia đình Caltilius, họ định cư tại Ostia – một thị trấn cảng ở phía Bắc Pompeii và cách Rome 18 dặm. Ở đó, họ lập một đền thờ thần Serapis. Vị thần này đội một cái giỏ đựng lúa mì trên đầu, tượng trưng cho sự thịnh vượng trên Trái đất, đã trở nên phổ biến ở các thành phố cảng như Ostia mà hoạt động buôn bán lúa mì trở nên vượt trội so với các hoạt động buôn bán khác. Những thành phố đó cũng xây nhưng một quần thể lăng mộ hoành tráng, xa hoa, trên đó khắc những bản miêu tả và chân dung cỡ lớn của thành viên trong gia đình.

Thành viên của gia đình Caltilius cũng kết hôn với những thành viên của những gia đình thoát chết từ vụ núi lửa như gia đình Munatiuses. Cùng với nhau, họ tạo ra một đại gia dình giàu có và thành công vượt trội.

Cảng biển nhộn nhịp thứ hai ở La Mã, Puteoli – mà ngày nay gọi là Pozzuoli – cũng chào đón những người sống sót từ Pompeii. Gia đình Aulus Umbricius, một thương gia buôn nước mắm garum, định cư ở đây. Sau khi sống sót, họ khôi phục lại nghề buôn bán nước mắm của mình, Aulus và vợ ông đặt tên cho đứa con đầu lòng là Puteolanus, tên của chính thành phố mới này. 

Một trường hợp khác, gia đình Sulpicius từ Pompeii định cư tại Cumae, theo hồ sơ lưu trữ với thông tin chi tiết về họ. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra một dạng két sắt ở ngoài tường thành Pompeii, trong đó có chứa nhiều ghi chép tài chính của họ, với những khoản cho vay, giấy tờ sở hữu tài sản… Nó nằm ngoài đường, dưới lớp tro bụi, có lẽ là ai đó đã mang theo trên đường chạy tháo thân rồi vứt lại ngoài thành phố. Cuối cùng, gia đình Sulpicius đã  chọn tái định cư ở Cumae bởi vì họ có một mạng lưới xã hội và tài chính ở đó, các nhà nghiên cứu nói.

Không phải tất cả những người sống sót đều gặp may mắn và thịnh vượng ở nơi định cư mới. Một số bị vận nghèo bám đuổi, một số mất hết gia đình, một số gia đình tị nạn đã giúp đỡ những người kém may mắn hơn bằng cách tiếp nhận những người sống sót nghèo khó và mồ côi, còn một số kết hôn với người ở vị trí thấp hơn địa vị trước đây của họ. Ví dụ Fabia Secundina từ Pompeii, thuộc dòng dõi một thương gia giàu có, đã dừng chân ở Puteoli. Ở đó, cô kết hôn với võ sĩ giác đấu tên là Aquarius người mang lưới, mà cuối cùng chết ở tuổi 25, để lại một cuộc sống nợ nần cho vợ mình.

Ba gia đình nghèo khác từ Pompeii – Avianii, Atilii và Masuri – sống sót và định cư ở một cộng đồng nghèo ở Nuceria mà ngày nay là Nocera, cách Pompeii 10 dặm về phía Đông (16,1 km). Theo thông tin trên một lăng mộ thì gia đình Masuri nhận nuôi một cậu bé tên là Avianius Felicio, một điều dường như không có tiền lệ trong 160 năm tồn tại của Pompeii, có lẽ là do Felicio không còn người thân nào sau thảm họa. Những ví dụ này cho thấy sự hào phóng của những người di cư từ Pompeii, ngay cả khi sống trong cảnh nghèo khổ, đối với những người cùng cảnh ngộ và mối quan hệ của họ với cộng đồng mới. 

Nhưng không phải ai cũng đủ khả năng để bắt đầu một cuộc sống mới ở nơi khác. Điều này có thể giải thích tại sao một số cư dân đã quay trở lại thành phố bị tàn phá, sống ở tầng trên của các tòa nhà đổ nát. Đó là những người không còn gì để mất. Ban đầu, khi trở lại chốn cũ đã đổ nát thì họ hẳn đã sống trong những căn phòng xiêu vẹo, ngập trong tro bụi, tuy nhiên tự nhiên cũng chìa bàn tay của mình ra với họ khi các thảm thực vật ở đó sớm lại bắt đầu phát triển tươi tốt, cung cấp một phần nguồn sống.

Ngoài việc là một chốn trú chân thân thuộc, Pompeii còn mang đến cơ hội cho họ: nếu đào sâu xuống lòng đất nơi có thể tìm thấy những đồ vật có giá trị, mặc dù rất nhiều khả năng họ cũng sẽ thấy nhiều thi thể nạn nhân đang phân hủy. Những người sống sót này có thể đã đi lang thang khắp những dinh thự và đường phố để tìm kiếm những đồ vật có giá trị như vậy cho cuộc sống tạm bợ của mình, một hệ quả là họ có thể không bao giờ được hưởng những hỗ trợ và cơ sở hạ tầng mà chính quyền La Mã đã xây dựng như trước thảm họa. 

Theo thời gian, những dấu vết mờ nhạt từ những cuộc khai quật cho thấy, cuối cùng họ cũng đào hang, làm lò sưởi, lò nướng bánh, cối xay lúa mì trên nền đất cũ. Một cuộc sống tạm bợ, đầy ngẫu hứng và vô chính phủ như các nhà nghiên cứu nhận xét. 

Bài học từ Pompeii

Những gì diễn ra đối với những người sống sót từ Pompeii cho thấy sức sống bền bỉ của con người, dẫu phải trải qua thảm họa khủng khiếp tưởng chừng diệt vong. Hầu hết họ đều thích ứng với cuộc sống mới và có thể tạm quên đi những thảm khốc đã qua. 

Không có bằng chứng nào cho thấy họ gặp phải sự phân biệt đối xử trong cộng đồng mới của mình. Ngược lại, mọi dấu hiệu đều cho thấy cộng đồng mới đã chào đón những người sống sót. Nhiều người trong số họ đã tiếp tục làm ăn buôn bán và nắm giữ các vị trí trong chính quyền địa phương. Và chính quyền đã hỗ trợ những nỗ lực của họ bằng việc ban hành chính sách đảm bảo cho họ và cộng đồng của họ có đủ nguồn lực và cơ sở hạ tầng để xây dựng lại cuộc sống.

Dẫu chính sự tự lực của những người dân mới là yếu tố để họ sinh tồn nhưng chính quyền La Mã cũng đóng một vai trò quan trọng. Các hoàng đế La Mã đã xây dựng lại các cơ sở hạ tầng bị hư hại do vụ phun trào và xây dựng cơ sở hạ tầng mới cho những người dân phải di dời, bao gồm đường sá, hệ thống nước, đấu trường và đền thờ. “Mô hình phục hồi sau thảm họa này có thể là bài học cho ngày nay. Chi phí tài trợ cho việc phục hồi dường như chưa bao giờ được bàn cãi. Những người sống sót không bị cô lập trong các trại tị nạn, cũng không bị buộc phải sống vô thời hạn trong cảnh nhà tạm”, giáo sư Tuck lưu ý.

Nhưng có lẽ, điều khiến ông cảm thấy ngạc nhiên nhất là sức sống bền bỉ của con người, ngay cả với những người chọn ở lại. Sự sống đã tái xuất, dẫu chỉ là những dấu vết như bữa ăn đơn sơ, đồ dùng giá rẻ, công cụ đơn giản, và cả những dấu hiệu của các cuộc trao đổi buôn bán quy mô nhỏ; một số bức tranh tường được vẽ vội vã… Tất cả cùng cho thấy sự hiện diện của một nền kinh tế tự cung tự cấp, nơi các cư dân cải thiện cuộc sống qua ngày.

Những người sống sót đã bị lãng quên nhưng chính sự tháo vát, thích ứng với hoàn cảnh đã giúp họ tổ chức cuộc sống từ tâm thảm họa. Pompeii không phải là nơi chỉ có cái chết, sự hoang tàn ngự trị mà đã trở thành biểu tượng của sự ngoan cường kháng cự trước sức mạnh siêu nhiên, của những người dám tiếp tục sống ở điểm kết thúc. Sự sống tiếp tục bám víu tồn tại ở ngay trên nền tro bụi. 

Vì thế, bài học từ đống tro tàn Pompeii không phải là về sự diệt vong hay nỗi tuyệt vọng trước khủng hoảng thiên tai mà là bài học về sự sống và hy vọng.□

Tô Vân tổng hợp

https://www.livescience.com/64854-where-pompeii-refugees-fled.html
https://theconversation.com/records-of-pompeiis-survivors-have-been-found-and-archaeologists-are-starting-to-understand-how-they-rebuilt-their-lives-230641

Bài đăng Tia Sáng số 22/2025

Tác giả

(Visited 39 times, 39 visits today)