“Thiện, Ác và Smartphone”: Một hành trình nội tâm

1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.

Điểm khác biệt dễ thấy ở tác phẩm mới này là thay vì xoay quanh nhiều chủ đề đa dạng, nhiều sự kiện thời sự, Đặng Hoàng Giang chủ yếu tập trung vào một hiện tượng: hành vi làm nhục công cộng trong thời đại số. Song không dừng ở việc mô tả bề mặt, mong muốn lý giải đến ngọn ngành của vấn đề khiến tác giả phải phát triển vấn đề xa hơn và sâu hơn, từ đó mở rộng sang nhiều khía cạnh khác: thiện và ác, trừng phạt và tha thứ, cái công cộng và cái riêng tư, tự do và trách nhiệm… Đó đều là những khía cạnh mà nếu không cho phép mình hời hợt, càng suy nghĩ, con người ta lại càng thấy ranh giới giữa những phạm trù tưởng như đối lập này thực ra rất bất định. Tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề, móc nối hiện tượng mình đang bàn luận với những cách tiếp cận của triết học, tâm lý học, đạo đức, xã hội học… để có thể có thêm nhiều góc nhìn tham chiếu, tiểu luận của Đặng Hoàng Giang có xu hướng mang tính khảo cứu. Một danh mục gần 200 tư liệu tham khảo ở cuối sách nhắc chúng ta nhớ rằng trước khi xuất hiện trong tư cách của một cây bút tiểu luận sắc sảo, Đặng Hoàng Giang là một nhà khoa học.

2. Xu hướng gắn tiểu luận với tính khảo cứu là đặc điểm nổi bật ngay từ cuốn sách đầu tiên của Đặng Hoàng Giang. Anh được biết đến nhiều như một nhà hoạt động xã hội có ảnh hưởng; ngay ở cuốn sách này, vai trò đó của anh được thể hiện rõ nét, đặc biệt ở đề xuất về “Dự án trắc ẩn”1 trong phần kết. Song chính từ những trang cuối cùng này, tôi đã có một hình dung khác về người viết. Đặng Hoàng Giang viết cuốn sách đúng với tâm thế của người theo đuổi thể loại tiểu luận, theo đó: “Viết tiểu luận tức là nỗ lực, thử nghiệm, cố gắng đạt đến một điều gì đó mà không chắc mình có thành công không… Có một điều gì đó thật can đảm ở hành động của người viết tiểu luận: anh ta lao vào cái chưa biết, không những không có tấm bản đồ nào trong tay mà còn không chắc chắn có điều gì giá trị có thể tìm thấy được hay chăng…”2
Trên thực tế, cuốn sách đã bắt đầu từ sự băn khoăn, thậm chí có thể nói là hoang mang của tác giả về cơn bão căm ghét, thịnh nộ của đám đông đôi khi lại kịch phát dữ dội nhắm vào một vài đối tượng bị xem là làm ô uế danh dự cộng đồng hay xâm phạm vào giá trị mà một nhóm, một bộ phận xã hội coi như chuẩn mực. Những cơn bão ấy được hình thành qua lớp ngôn từ bạo lực và nhờ sự hiện đại của công nghệ, sức công phá của chúng lại càng nhanh và mạnh, để lại những tổn thương lớn song ít được chú ý. Và điều đáng nói là có vẻ chúng được xem như hiện thân của công lý đám đông, chúng thực thi sức mạnh ở nơi pháp luật chưa chạm đến.

3. Nếu để hiểu con người, nhất là những kẻ đã bị đám đông nhất trí tẩy chay, lòng trắc ẩn trở thành phẩm chất cần thiết thì để phân tích cơ chế và đặc biệt là môi trường nuôi dưỡng cơn bão căm ghét, biện hộ cho việc làm nhục công cộng lại cần đến một lý trí đủ lạnh. Những phân tích của Đặng Hoàng Giang về cơ chế ghi nhớ của thế giới mạng, tính chất mặt nạ của mạng xã hội cho phép con người ta thoái thác trách nhiệm trong những tương tác trên không gian vốn bị xem là “ảo” này… có sức thuyết phục. Nhưng điều có thể đánh động nhận thức của người đọc qua những phân tích ấy là sự đồng dạng giữa cơ chế của những cơn bão căm ghét và hành vi sỉ nhục công cộng diễn ra trên mạng với những hành vi xúc phạm nhân phẩm con người trong các thiết chế xã hội cũ. Những vết thích mà cư dân mạng khắc lên những kẻ bị coi là tội nhân, theo Đặng Hoàng Giang, không lu mờ nhanh như người ta tưởng, bởi cùng với đó là những tổn thương, những hệ lụy khó lường. Sự đồng dạng mà Đặng Hoàng Giang chỉ ra ở đây không khỏi làm tôi nghĩ đến một hiện tượng khác, rộng hơn đã được anh cảnh báo trong cuốn sách trước – sự trở lại của tư duy phong kiến. Với sự xuất hiện của những dân phòng mạng, những hình thức đấu tố, xét xử công cộng và hình thức gắn nhãn cho những cá nhân nào đó, không gian mạng rất có thể đã bị thu hẹp dần chiều kích tự do của nó.

Tất nhiên, ở đây, một đòi hỏi cao hơn sẽ muốn tác giả cuốn sách không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra cơ chế của tâm lý đám đông trong hành vi sỉ nhục công cộng hay sự tương đồng về tính chất kỹ thuật của việc thực hiện hành vi này ở thời đại số với những hình phạt thời phong kiến. Sự cô đơn của đám đông, nhu cầu góp mình vào công lý của đám đông… những căn nguyên ấy đều đã được cuốn sách phân tích một cách có lý. Nhưng đằng sau những cơn cuồng nộ của đám đông nhằm vào đối tượng mà họ kết án còn là một tâm lý bất an. Trạng thái bất an ấy chắc hẳn có căn nguyên sâu hơn từ sự khủng hoảng niềm tin, sự hồ nghi vào công lý xã hội trong đời sống, từ đó, mới dẫn đến sự trỗi dậy và lớn mạnh của “chủ nghĩa tự xử” mà Đặng Hoàng Giang đã nói đến trong cuốn sách. Thiết nghĩ, cũng chính vì sự khủng hoảng, hồ nghi này, “chủ nghĩa tự xử” từ cơn thịnh nộ của đám đông lại được biện hộ hơn là bị chất vấn.

4. Nếu hành vi sỉ nhục công cộng và cơn bão căm ghét biến ngôn từ thành bạo lực thì để hạn chế nó, xây dựng một môi trường xã hội nhân văn hơn, cũng có thể bắt đầu từ ngôn từ. Đặng Hoàng Giang đã chia sẻ những kinh nghiệm cho việc này qua những phần viết về nghệ thuật phê bình người khác, về sự lắng nghe để thấu cảm. Không quay lưng, ẩn mình trước những vấn đề bức xúc của xã hội, những hiện tượng đáng báo động trong đời sống, những nguy cơ nghiêm trọng mà con người đang phải đối mặt, nhưng Đặng Hoàng Giang không phải là con người dành thời gian chỉ để bi phẫn. Anh nuôi niềm tin vào những đổi thay theo chiều hướng tích cực và niềm tin ấy có cơ sở. Có thể minh chứng cho điều này bằng những trang khép lại của cuốn sách – những trang văn đẹp nhất, đối với tôi, ghi lại cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa tác giả và Nguyễn Lê Thiên Lý, cô bảo mẫu bạo hành trẻ em đã có thời là đối tượng của sự sỉ nhục công cộng.

Sau thời gian chịu cải tạo, cô gái ấy đã trở lại đời thường. Và dường như mọi thứ diễn ra bất ngờ với đám đông đã từng tạo nên vết thích cho cô, bất ngờ với cả hình dung của tác giả. Lý đang sống một cuộc sống yên ổn, người yêu của cô đã đợi cô ra tù để làm lễ cưới. Cô gái không quên những việc đã làm, cô không thanh minh cho mình, cô nhìn thẳng vào mắt tác giả, cô hiểu vì sao người ta đã từng đả kích, căm phẫn mình. Đặng Hoàng Giang không dành nhiều lời bình luận. Anh cố gắng quan sát, lắng nghe. Trong những gì anh nhìn thấy, trong câu chuyện của Lý kể, anh chú ý đến vai trò của người cha xứ, người đã im lặng nghe Lý xưng tội sau khi ra tù, đến hình ảnh của tượng Chúa trong phòng khách nhà Lý. Các chi tiết đều chỉ là những nét chấm phá nhưng gợi ra rất nhiều điều: về những khía cạnh sâu xa vừa đáng cảm thông, vừa đáng trân trọng ở một con người từng bị xã hội lên án là mất hết tính người, về khả năng chấp nhận, tha thứ, không phải chỉ của luật pháp, mà quan trọng hơn của những con người trong giáo xứ, về điểm tựa để những mầm thiện nơi con người có thể bám trụ… “Thiện, Ác, và Smartphone”, vì thế, có thể xem như một hành trình nội tâm của Đặng Hoàng Giang: bắt đầu từ sự giật mình trước cái ác công nhiên của đám đông, từ nỗi ái ngại trước khả năng cái ác trở thành bình thường, thậm chí được biện hộ trong thời đại số để kết lại bằng niềm tin vào việc nuôi dưỡng sự tử tế, lòng vị tha và thấu cảm. Đó không phải là một niềm tin được cường điệu để khiến cuốn sách trở thành cẩm nang bài học cuộc sống. Tôi muốn gọi đó là một niềm tin điềm tĩnh khi nhận ra vẫn có những giá trị bền vững ở con người và cuộc đời. Bởi vậy, tôi nghĩ “Dự án trắc ẩn” – một đề nghị tâm huyết của Đặng Hoàng Giang ở cuốn sách này – hoàn toàn khả thi.
——–
1 Một dự án kéo dài cả đời và đòi hỏi luyện tập hằng ngày để trở thành con người trắc ẩn, không thờ ơ với những bất công xảy ra trước mắt; không dung túng, biện hộ hay chấp nhận cái sai nhưng không căm ghét hay giận dữ người có hành vi sai.
2 Phillip Lopate, “The Art of Personal Essay” in trong The Art of Personal Essay: An Anthology from the Classical Era to the Present, New York & London: Anchor Books, Doubleday, 1994, trang XLII.

Tác giả

(Visited 31 times, 1 visits today)