Thiên nhiên & nơi chốn đô thị Việt Nam
Bản sắc của phố thị của Việt Nam, phải chăng còn nằm ở các rặng cây và sông hồ, những cảnh sắc không chỉ đem lại những xúc cảm thẩm mỹ về nơi chốn?
Từ thời cổ đại, con người đã chú trọng tới việc sử dụng cây xanh và các yếu tố tự nhiên khác trong quy hoạch và thiết kế đô thị. Nửa sau thế kỷ 20, nhà đô thị học lừng danh Kevin Lynch đã cho rằng một mô hình đô thị tốt là phải làm cho con người phát triển bền vững cùng thiên nhiên, bởi thiên nhiên giúp cho con người cảm nhận thấy tinh thần nơi chốn một cách tốt nhất.
Ngày nay, trước mối đe dọa của biến đổi khí hậu và tốc độ đô thị hóa quá nhanh, việc thiết kế đô thị sinh thái ngày càng trở nên cấp thiết và thời sự. Các yếu tố tự nhiên như cây xanh, mặt nước, nắng, gió… cần được nghiên cứu và sử dụng hiệu quả, bởi nó không chỉ giúp giảm thiểu khai thác tài nguyên, tăng cường sức khỏe thể chất cũng như tinh thần cho người dân. Phân tích về vai trò của cây xanh và mặt nước trong đô thị sẽ cho chúng ta thấy, những yếu tố này là phần không thể thiếu để hình thành tinh thần nơi chốn, bản sắc riêng của đô thị, để giúp cư dân gắn bó với đô thị.
TÂM HỒN CỦA CÂY XANH
Trong đô thị cổ điển của phương Tây, cây xanh được tập trung chủ yếu trong công viên, vườn hoa. Còn ở Việt Nam, cây xanh được trồng chủ yếu trên đường phố. Hầu hết các hoạt động của con người trên hè phố đều gắn với cây xanh. Người ta bán trà đá, bán hàng rong cạnh gốc cây; người ta hẹn hò, ăn uống, dạo chơi dưới tán cây; người ta chụp ảnh, vẽ tranh, chơi đàn dưới bóng mát của cây… rất nhiều kỷ niệm, sự kiện trong đời người gắn với cây. Vì vậy, ở Việt Nam, cây xanh đường phố không chỉ là giải pháp thiết kế bền vững, cải thiện vi khí hậu cho đô thị, mà còn là một cách tạo dựng tinh thần nơi chốn đô thị.
Cây xanh và đặc trưng đô thị
Trên thế giới, không ít những thành phố nổi tiếng ghi dấu ấn bởi hệ thống rừng và cây xanh tập trung lớn. New York nổi tiếng với công viên Trung tâm có diện tích 3,1km2, trải dài 4km, được thiết kế giống như rừng tự nhiên, với nhiều dịch vụ và hoạt động cộng đồng khác nhau, thu hút 36 triệu lượt khách tham quan mỗi năm1. New York là thành phố có mật độ nhà chọc trời cao bậc nhất thế giới, cây xanh trên đường phố hầu như không có. Giữa không gian đô thị khô cứng và ngập tràn vật chất đó, công viên Trung tâm chính là một địa điểm giúp cho New York cân bằng lại tinh thần; người dân tạm thời gác sang một bên những chỉ số tài chính không ngơi nghỉ, những mảng bê tông và kính ngộn ngợp để lặng lẽ tìm lại một chút tâm tư cảm xúc từ thiên nhiên.
London là một đô thị có nhiều hình ảnh đặc trưng như tháp đồng hồ Big Ben, cầu Tháp, xe bus hai tầng, bốt điện thoại… và chúng ta cũng không thể không nhắc tới hệ thống cây xanh tập trung của thành phố này với nhiều công viên nổi tiếng như Hyde Park, Regent’s Park, St James Park, Hampstead Heath… Những công viên này được thiết kế cảnh quan gắn bó với thiên nhiên với những đường dạo quanh co, có nhiều loại cây xen kẽ nhau và không bị xén tỉa, tạo nên thương hiệu “vườn kiểu Anh” (khác với “vườn kiểu Pháp” hay sử dụng hình thức xén tỉa nhân tạo và đường dạo thẳng).
Hay Moskva là thành phố phát triển từ rừng nên nó có một hệ thống các rừng cây tự nhiên xen kẽ bên trong cũng như bao bọc quanh thành phố. Đó là điểm thú vị và đặc trưng của Moskva, thành phố của những khu rừng.
Ở các đô thị Việt Nam, tuy cây xanh ít khi tập trung thành những khu rừng hay những công viên lớn, nhưng lại được trồng nhiều trên hè phố và góp phần tạo nên bản sắc cho các đô thị, ví dụ Hải Phòng được nhớ đến là thành phố hoa phượng đỏ, thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng với những hàng me xanh mướt, Hà Nội có rất nhiều loại cây hoa đã đi vào thơ ca và lòng người như sữa, sưa, đào. Đặc biệt Đà Lạt với những đồi thông và rất nhiều loại hoa, nên được mệnh danh là “thành phố ngàn hoa”.
Hơn thế, cây xanh còn có khi là biểu trưng cho tinh thần con người đô thị Việt Nam, ví dụ như người Hà Nội được ví với hoa nhài, hoa mai trong các ca dao (Chẳng thanh cũng thể hoa mai/ Dẫu không lịch sự cũng người Thượng kinh; Chẳng thanh cũng thể hoa nhài/ Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An).
Thậm chí cây xanh lớn trong các đô thị Việt Nam còn được thờ cúng2. Cây xanh không chỉ kết nối tinh thần với người dân ở những cảm xúc yêu thương hoặc kỷ niệm mà còn là thần linh che chở cho họ trước những khó khăn, cạm bẫy của cuộc đời.
Phân tích vai trò của cây xanh ở Hà Nội cho chúng ta thấy rõ những điều này.
Nơi chốn cây xanh ở Hà Nội
Hà Nội là chốn kinh kỳ, nơi ở của tầng lớp quý tộc trong nhiều thế kỷ nên cái thú chơi hoa, chơi cây đã ngấm vào văn hóa của Hà Nội. Theo như các bài thơ của Nguyễn Trãi, ở thế kỷ 15 người Thăng Long đã có thú chơi cây hoa. Thời đó họ chuộng các cây như Mai, Cúc, Trúc, Tùng, Lan, Đào, Mẫu Đơn, Thiên Tuế, Mộc, Nhài, Sen, Hòe, Đa già, Dương…3 Cây và hoa dường như lớn lên cùng với mỗi con người Hà Nội xưa, cùng họ chia sẻ những nỗi buồn, niềm vui, tình yêu thương trong cuộc đời (Phiên rằm chợ chính Yên Quang/ Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua!)
Ngày nay, cây và hoa cũng đi vào thơ ca của Hà Nội rất nhiều. Dường như mỗi con phố, mỗi nơi chốn của Hà Nội đều được ghi dấu ấn bởi một loại cây, một loài hoa nào đó, để khi xa Hà Nội người ta nhớ về thủ đô với những hình ảnh như gốc cây bàng khẳng khiu vào mùa đông, hoa sưa nở trên đường Thanh Niên vào mùa xuân, đầm sen Hồ Tây thơm mát vào mùa hè, hoa sữa rụng trên hè phố Nguyễn Du vào mùa thu… Trong tim nhiều người, hình ảnh đô thị của Hà Nội chưa hẳn đã là những công trình kiến trúc hoành tráng sang trọng, những tuyến đường lung linh đèn màu cửa hiệu, mà chỉ là một gốc phố lá bàng rụng, một ghế đá thơm mùi hoa sữa.
Những lý luận về hình ảnh đô thị (sự ghi nhớ của cư dân đô thị về các tuyến phố, nút giao thông, công trình điểm nhấn, khu vực dân cư, vành đai…) có thể đúng với các đô thị khác, còn với Hà Nội thì chưa hẳn. Bởi người Hà Nội và du khách sẽ nhớ nhiều hơn tới cây sưa cạnh chùa Trấn Quốc, hàng cây hoa ban trước lăng Chủ tích Hồ Chí Minh, mùi hoa sữa ở hồ Thiền Quang, lá bàng rụng trên hè phố Mã Mây… Những địa điểm đô thị cuốn hút ở Hà Nội không hẳn là quảng trường, trung tâm thương mại, nhà hát… mà là những nhành hoa để chụp ảnh, là những quán cóc ở các góc phố với gốc cây cổ thụ xù xì.
Nhiều nơi chốn đẹp ở Hà Nội có liên quan tới cây xanh và hoa và chỉ tồn tại theo mùa. Cứ đến một mùa hoa nào đó là người dân Hà Nội lại rủ nhau tới để chụp ảnh, ngắm cảnh, hẹn hò… từ đó hình thành những địa điểm cộng đồng đặc trưng theo mùa của Hà Nội. Ví dụ, mùa xuân có vườn đào Nhật Tân, hoa ban ở lăng Bác, hoa sưa ở đường Thanh Niên, Hoàng Hoa Thám; mùa hè có đầm sen ở gần công viên nước Hồ Tây, vườn nhãn ở chân cầu Vĩnh Tuy; mùa thu có hoa sữa ở nhiều con phố; mùa đông có hoa cải ở chân cầu Đuống, lá vàng rơi ở phố Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Kim Mã… Những hoạt động ở các nơi chốn cây xanh này là tự nhiên, tồn tại theo quy luật của trời đất, mùa nào địa điểm ấy. Có lẽ, lối sống gần gũi với thiên nhiên của người Việt Nam nói chung và của người dân Hà Nội nói riêng đã tạo ra những nơi chốn đô thị gắn bó với thiên nhiên, khí hậu.
Người dân Hà Nội tạo dựng những nơi chốn cây xanh không chỉ có hình ảnh thị giác đẹp mà còn có khả năng đánh thức tất cả các giác quan khác, cũng như khơi gợi khả năng sáng tác nghệ thuật, thôi thúc sáng tạo hoạt động cho người dân. Đó là những góc phố ngào ngạt hoa sữa với vị chát của chén trà mạn và tiếng xe xuôi ngược trên đường; đó là vẻ trắng tinh khiết của hoa sưa với gió hồ Tây man mát làn da và tiếng chuông chùa Trấn Quốc; đó là đầm sen với sắc hồng của hoa và sắc xanh của lá chen lẫn tiếng gọi í ới của các bạn trẻ tìm góc chụp ảnh.
Những nơi chốn cây xanh ở Hà Nội được hình thành và phát triển một cách tự phát, do người dân tự kiến tạo nên chứ không phải do định hướng của các nhà chuyên môn. Tất nhiên, ở đây chúng ta không thể phủ nhận sự tác động của truyền thông nên việc hình thành các địa điểm. Từ một số ảnh chụp đẹp của một số người dân, các phương tiện báo chí và mạng xã hội phát tán rộng rãi những bức ảnh đó, tạo nên cơn sốt trong dư luận, nhất là đối với các bạn trẻ. Từ những lời đồn đoán, người ta đua chen nhau tới các địa điểm để giao lưu và chụp ảnh. Việc kiến tạo các địa điểm đô thị này không mất nhiều chi phí đầu tư của nhà nước, bởi nó được nhân dân sáng tạo ra, nhân dân tự khai thác. Chính quyền thành phố đã chi nhiều tiền để tu sửa và xây mới các công viên và quảng trường như công viên Cầu Giấy, công viên Hòa Bình, quảng trường Lao Động… nhưng chưa chắc đã cuốn hút nhiều người dân sáng tạo và tham gia các hoạt động bằng một cây sưa già lẻ loi hay một vườn đào cỏ dại hoang sơ. Người Hà Nội không hào hứng sáng tạo tại những địa điểm công cộng do chính quyền lập ra, họ thích tự khám phá và sáng tạo thành phố theo cách của mình nhưng phải theo trào lưu. Chất ngẫu hứng và lãng mạn, tâm lý a dua và thích chụp ảnh của người dân Hà Nội trong việc kiến tạo nơi chốn rất khó có thể tìm thấy trong các đô thị khác trên thế giới.
Như vậy, ở các đô thị Việt Nam nói chung, tuy không có những công viên cây xanh lớn và đẹp như ở phương Tây, nhưng bù lại những cây xanh nhỏ lẻ nhưng độc đáo trên khắp các tuyến phố lại rất hấp dẫn và lôi kéo nhiều người dân sáng tạo các hoạt động khác nhau. Ngoài ra, từ sâu thẳm văn hóa Việt Nam, cây xanh đã gắn liền với tâm hồn con người, tâm linh của dân tộc. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy những nơi chốn cây xanh trong các đô thị Việt Nam cần được quan tâm hơn nữa, đồng thời cần tránh những cách làm như vụ việc chặt hạ thay thế hơn 6000 cây cổ thụ ở Hà Nội trong đầu năm 2015.
TINH THẦN CỦA MẶT NƯỚC
Hầu hết các đô thị trên thế giới đều được xây dựng bên cạnh những con sông hoặc những hồ lớn. Trong nhiều trường hợp, nước (sồng, hồ, bãi biển) còn góp phần tạo ra bản sắc và tinh thần đô thị.
Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam, nước là một trong năm thành tố tạo nên vũ trụ (ngũ hành: thủy, mộc, hỏa, thổ, kim). Trong thuật phong thủy, nước là nơi dẫn truyền và tụ hội khí chất của trời đất. Nước cùng với địa hình tạo ra các thế đất phong thủy. Nhìn vào dòng chảy của nước và sắc thái của cây cỏ mà các thầy phong thủy có thể biết khí tốt tụ hội ở đâu. Dân gian cũng cho rằng nước là nơi linh thiêng, có thần linh trú ngụ, “đất có thổ công, sông có hà bá”.
Giữa một đô thị ồn ào với các cao ốc và đại lộ được xây dựng theo lý trí của con người, thì một dòng chảy cuồn cuộn của sóng sông hay một vẻ tĩnh lặng của mặt hồ sẽ giúp con người tìm lại các cảm xúc chân thật tự nhiên. Lý trí và cảm xúc, nhân tạo và tự nhiên, công trình và mặt nước… chúng phải bổ trợ cho nhau, cùng nhau tạo dựng nên những đô thị đáng sống.
Hồ nước và bản sắc đô thị
Trên thế giới có nhiều các đô thị gắn liền tên tuổi của mình với một dòng sông như Paris bên sông Seine, London bên sông Thames… nhưng lại có rất ít các đô thị trên thế giới được ghi nhớ bởi những hồ nước. Tuy nhiên, những đô thị bên hồ nước thường là những đô thị rất đẹp và đặc sắc như thành phố Hàng Châu bên Tây Hồ có nhiều loại trà ngon, hoặc “viên ngọc của nước Áo” Hallstatt nằm bên hồ Hallstatter See phẳng lặng mờ sương, Geneva bên hồ Leman xanh ngắt thanh bình… Hồ nước không có dòng chảy nên nước hồ thường có màu xanh, sóng chỉ gợn lăn tăn, nên tạo cảm giác yên bình tĩnh tại. Vì vậy, những đô thị nằm bên hồ thường có cảm giác yên bình hiền hòa; con người sống gần hồ thường nhẹ nhàng, chậm rãi, tinh tế. Các thi nhân mặc khách cũng thường thích lui tới các hồ đẹp để ngắm cảnh và sáng tác. Nghe lời bài hát “Chiều phủ Tây Hồ” của Phú Quang để thấy vẻ lãng đãng thanh bình của hồ nước:
Chiều như chậm rơi, chậm rơi,
Sóng bồng bềnh bồng bềnh,
Sương giăng đỉnh núi mờ xa.
Phủ Tây Hồ bâng khuâng huyền thoại,
Xa xanh hạc trắng bay về,
Chiều như cơn mơ vỗ về hồn ta bơ vơ…
Suy nghĩ của con người là vô thường, luôn luôn chuyển động từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Cuộc sống đô thị luôn luôn chuyển động, từ sự kiện này đến sự kiện khác, từ hình ảnh này tới hình ảnh khác. Giữa sự vận động không ngừng nghỉ của ý thức con người và của sự sống đô thị, hồ nước chính là chính là một khoảng lặng cần thiết để con người và đô thị nghỉ ngơi, tạm thời gạt bỏ những ham muốn xô bồ trong cuộc sinh tồn khắc nghiệt.
Ở nước ta, Hà Nội là thành phố có nhiều hồ đẹp nhất như hồ Gươm, hồ Tây, hồ Thiền Quang, hồ Bảy Mẫu… và với dáng vẻ thanh bình lãng mạn của mình, chúng cũng góp phần làm nên bản sắc của Hà Nội, thành phố vì hòa bình. Những hoạt động ở khu vực các hồ cũng rất hấp dẫn, ví dụ như đạp vịt ở Hồ Tây, uống cà phê bên hồ Thiền Quang, xem thú bên hồ Thủ Lệ, thăm các di tích bên Hồ Gươm…
Mỗi đô thị, một dòng sông
Sông góp phần tạo lập các giá trị tinh thần cho đô thị. Mỗi con sông đều có một vị thần cai quản để giúp cho nhân dân có mùa màng tốt tươi, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Sông là nơi linh thiêng, che chở cho các thành phố như trường hợp thần Long Đỗ của Thăng Long4. Mỗi con sông đều có những cảnh đẹp riêng, có những kỷ niệm riêng với từng con người, để từ đó người ta sáng tác các bài thơ, câu ca, bức họa về sông. Thậm chí tưởng như có những phiền toái mà sông mang đến cho con người như triều cường, lụt lội thì thực ra đó lại là bản sắc của đô thị, là kỷ niệm đáng yêu của cuộc đời, như cách nhìn Sài Gòn của Trịnh Công Sơn:
Em còn nhớ hay em đã quên?
Khi chiều xuống bên sông nước lên
Én nô đùa giữa phố nhà
Có nắng vàng lạc trên lối đi…
Trên thế giới, không phải thành phố nào cũng có hệ thống hồ nước phong phú như Hà Nội hoặc có hệ thống sông dày đặc như Venice. Và để tăng cường sự hiện diện của nước trong thành phố người ta phải thiết kế những mặt nước nhân tạo, đặc biệt ở những đô thị có thời tiết nóng và khô như khu vực Bắc Phi, Trung Đông, Ấn Độ.
Một trong những mặt nước nhân tạo nổi tiếng nhất thế giới là ở Ấn Độ, bởi vì nó gắn liền với một kiệt tác kiến trúc, đó là hồ nước dẫn vào công trình Taj Mahal, lăng mộ mà hoàng đế Mogul Shah Jahan xây dựng để tưởng niệm người vợ yêu của mình. Các hồ nước dài xung quanh lăng mộ mang biểu tượng của bốn con sông trên thiên đàng. Trong các văn bản thần bí Hồi giáo thời kỳ Mogul, thiên đàng được miêu tả là một khu vườn lý tưởng, phong phú. Nước đóng một vai trò quan trọng trong những phần miêu tả đó: Ở Thiên đường, những cuốn sách đó viết, bốn con sông bắt nguồn từ một dòng suối ở trung tâm hay một quả núi, và chúng chia khu vườn thành bốn phần Bắc, Tây, Nam và Đông.
Ở châu Âu, với một trình độ kỹ thuật cao về cơ học và thủy lực từ thời La Mã cổ đại, các đài phun nước là một giải pháp mà các nhà đô thị thường dùng để đưa hình ảnh tự do và sảng khoái của nước vào trong cuộc sống người dân đô thị. Những đài phun nước có dòng chảy từ trên xuống chính là hiện thân của những dòng suối chảy từ đỉnh núi vào mùa xuân, nó mang lại cho người dân cảm giác chân thật của thiên nhiên giữa các công trình mang đầy tính duy lý của con người5. Đài phun nước đặc biệt có ý nghĩa hơn vào mùa hè, bởi trong bầu không khí nóng lực và khói bụi, hình ảnh dòng nước mát tuôn trào sẽ làm dịu đi thị giác và xúc giác của người dân đô thị.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ, các đài phun nước ở châu Âu được xây dựng lớn hơn với nhiều hiệu ứng hơn (như tạo sương mù, kết hợp đèn chiếu sáng) và có khả năng tương tác mạnh hơn với người dân. Ví dụ như quảng trường nước Bourse ở Bordeaux có diện tích 2700m2 có lúc là đài phun nước, có lúc lại phẳng lặng như mặt gương soi, có lúc lại có sương mù… ngoài ra, nó còn cho phép người dân dạo chơi, đùa nghịch ở trên mặt nước. Quảng trường này vốn là một nhà kho, được cải tạo lại thành mặt nước từ năm 2006 với hệ thống máy móc hiện đại cho phép làm ngập toàn bộ bề mặt chỉ trong 3 phút.6
Ở các đô thị Việt Nam, do hệ thống sông ngòi, ao hồ tự nhiên đã sẵn có, lại không có thói quen sử dụng và thiết kế quảng trường nên nhìn chung hệ thống mặt nước nhân tạo ít được chú ý. Gần đây, nhiều thành phố đã chú ý hơn tới việc thiết kế đài phun nước kết hợp hiệu ứng âm thanh ánh sáng như ở Hà Nội, Hạ Long, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hải Dương… nhưng có vẻ như thiết kế của chúng không có đặc sắc riêng, hầu như cái nào cung giống nhau. Ngoài ra, những quảng trường mặt nước cho phép người dân tương tác, đùa nghịch vẫn chưa được coi trọng. Chúng ta nên nhớ rằng, tinh thần của nơi chốn được cảm nhận bởi các giác quan, và mặt nước nhân tạo không chỉ cảm nhận bởi thị giác mà phải cả bằng xúc giác, thính giác của con người.
***
Mặt nước là yếu tố không thể thiếu đối với cảm xúc, tinh thần của đô thị. Dù là hồ, sông, biển hay mặt nước nhân tạo, mặt nước giúp người dân tìm lại cảm xúc tự nhiên, sơ thủy của loài người. Mặt nước cùng với cây xanh là những thành phần không thể thiếu để xây dựng những đô thị sinh thái, để kiến tạo những nơi chốn gần gũi với thiên nhiên, mang lại cho cư dân đô thị cảm giác được hòa mình vào vũ trụ mênh mang sâu thẳm.□
——
Chú thích
1 wikipedia.org
2 Đọc bài “Kiến trúc đô thị: Văn hóa nơi góc nhỏ phố phường”. Nguồn: https://tiasang.com.vn/van-hoa/kien-truc-do-thi-ky-3-van-hoa-noi-goc-nho-pho-phuong/
3 Trần Quốc Vượng. Văn hóa Việt Nam. NXB Thời Đại, 2014
4 Xem bài “Kiến trúc của đô thị: Tinh thần của đô thị” https://tiasang.com.vn/van-hoa/kien-truc-do-thi-ky-1-tinh-than-cua-do-thi/
5 Cliff Moughtin (1999). Urban design, ornament and decoration. Architectural press, p.122-124
6 Tạp chí Quy hoạch xây dựng số 63, 2013
Bài đăng Tia Sáng số 6/2024