Tính cách Hà Nội

Từ rất lâu, người Tràng An – Hà Nội được coi là một tính cách đặc trưng cho sự thanh lịch và cẩn trọng. Tính cách ấy có lẽ cũng từ lâu là quá khứ, bởi con người Hà Nội ngày nay hoàn toàn khác, cũng như không còn mấy người Hà Nội gốc.

1. Hà Nội không phải là một thành phố ổn định, mà là một thành phố liên tục thay đổi, nếu nói hay ho là phát triển và còn thay đổi trong hàng chục năm tới. Nó là sự cộng sinh của các tính cách địa phương.

Khái niệm thành phố ở phương Tây gắn bó với các ý nghĩa văn minh và công dân, bắt đầu từ các thành bang Hy Lạp và các thành phố La Mã từ vài trăm năm trước Công nguyên. Thành phố ở VN hay ở phương Đông nói chung không mang những ý nghĩa như thế.

Ở VN văn minh nằm trong các làng xã, còn con người công dân cho đến tận bây giờ cũng rất yếu. Thành phố được gọi là thành thị thì đúng hơn, tức là một cái thành trì phong kiến nằm bên một cái chợ. Cái chợ này mang tính toàn quốc, là tập trung của hình ảnh cái chợ từ chợ làng, chợ tổng, chợ huyện và chợ tỉnh, mà lại rất yếu về kinh tế thị trường trong quá khứ.

Cái chợ Hà Nội là tổng thể của các làng nghề tách ra từ các tỉnh địa phương lên thành phố vừa sản xuất vừa buôn bán cố định, hình thành các phường thợ, một hình thức liên kết kinh doanh lỏng lẻo.

Tính cách người Kẻ Chợ hình thành từ đó, thoạt tiên lấy chữ Tín làm căn bản, nghĩa là vay, mượn và cho vay, chất lượng hàng được đảm bảo bởi uy tín của gia chủ, không lấy việc làm giầu làm mục đích. Thị dân Kẻ Chợ tích lũy vốn bằng làm ăn chăm chỉ, không có bóc lột công nhân, không trở thành các tư bản nhà nước.

Kề theo đó là tính cách cẩn thận trong tay nghề để tạo ra các sản phẩm chất lượng hàng trăm năm không thay đổi. Cẩn thận và giữ chữ Tín là hai tính cách căn bản hình thành trong khoảng 500 năm của dân Kẻ Chợ từ sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, năm 1427, khi Hà Nội được coi là Đông Đô – kinh đô của nhà Lê sơ.

Trải qua những cuộc biến động như sự di dân Hoa kiều vào VN sau năm 1644, cuộc tạo phản của nhà Mạc và trung hưng nhà Lê thế kỷ 16, Trịnh – Nguyễn phân tranh trong thế kỷ 17, Kiêu binh biến loạn thế kỷ và cuộc tấn công của Tây Sơn, cũng như cuộc chiến đánh quân Thanh thế kỷ 18…, tính cách Kẻ Chợ dường như không thay đổi và nó càng được củng cố thêm trong thời Nguyễn khi chỉ là Bắc thành mà mất vai trò Kinh kỳ. Từ hai tính cách đó, nhiều tính cách khác nảy sinh, đó là sự khó tính trong sinh hoạt, sự lễ nghĩa trong ứng xử, sự khinh mạn bên trong khi tiếp xúc với người nhà quê… và rồi pha trộn đôi chút tính phù phiếm, tính giảo hoạt và tính kênh kiệu, khách sáo, dần trở thành chút đạo đức giả.

2. Chúng ta nên nhớ rằng trước khi Pháp chiếm Hà Nội, các phường thợ Kẻ Chợ đa phần vẫn dựng bằng tre nứa gỗ lá. Con người sống trong căn nhà lá thường là nghèo và chất phác, dù tham gia kinh doanh.

Chuyển từ nhà lá lên nhà gạch xây một tầng rưỡi kiểu mái thu hồi, như trong tranh của Bùi Xuân Phái, người Kẻ Chợ chính thức trở thành người Thăng Long đô thị. Đình đền chùa của phường thợ cũng khang trang hơn, đồ đạc nội thất cũng được làm cầu kỳ hơn bằng gỗ tốt, kim loại, đá quý, thậm chí còn đặt mua đồ từ Paris, các bà các cô ăn mặc cũng tân thời và đúng mốt hơn.

Năm 1930, khi chiếc áo dài tân thời được họa sĩ Cát Tường và Lê Phổ thiết kế từ chiếc áo tứ thân truyền thống, người Hà Nội chính thức trở thành thị dân tiểu tư sản. Và họ bắt đầu có những tính cách của trí thức và thị dân phương Tây đương đại. Cả nam lẫn nữ đều được đi học trường Tây, nói tiếng Pháp và cả tiếng Anh, đọc tiểu thuyết, mua tranh của danh họa, nghe ca kịch và giao hưởng, buôn bán được mở rộng đến tận Sài Gòn, Phnompenh, Viên Chăn, hàng hóa đem sang chợ đấu xảo ở Paris… thậm chí còn cạnh tranh với các nhà buôn phương Tây ở VN.

Song về bản chất thị dân Hà Nội là những người thích yên trí với cửa hiệu nhỏ số vốn ít của mình, không thích thay đổi, không thích mở rộng, không thích nhà quá to, không thích phát minh sáng tạo, sợ đầu tư vào thị trường lớn và mong muốn con cái trở thành trí thức, thoát khỏi làng nghề. Đặc tính này làm cho thị dân Hà Nội hoàn toàn bị đè bẹp qua những cuộc cải cách công thương nghiệp, bị lụi tàn trong nền kinh tế bao cấp, và cuối cùng trong nền kinh tế thị trường họ hoàn toàn rút lui trước những người địa phương ào vào chiếm thị trường Hà Nội.

3. Nếu lấy đường Tràng Thi nối dài với đường Điện Biên Phủ làm trục phân cách Hà Nội cổ ta sẽ thấy rõ hai phân khu Bắc – Nam. Phía Tây Bắc chính là thành cổ Hà Nội, sau này Pháp xây thêm phủ Toàn quyền vào đó và vài ngôi nhà hành chính. Phía Đông Bắc chính là khu phố cổ Hà Nội, với các phố phường lâu đời. Từ đường Tràng Thi trở xuống phía Đông Nam là khu nhượng địa với nhiều villa cổ, phía Tây Nam cổ xưa thì có Văn Miếu, Giảng Võ còn lại toàn làng mạc đầm lầy, kết thúc ở đường Láng.

Xung quanh khu phố cổ, trừ góc Bắc và Đông Bắc tiếp giáp với sông Hồng, còn lại toàn làng mạc và đầm hồ, lớn nhất là hồ Thủy Quân (Hồ Gươm).

Người ta mới đặt vấn đề về tính cách thị dân Hà Nội mà chưa bao giờ để ý đến tính cách những người sống trong làng giữa Hà Nội. Họ cũng không hẳn là nông dân theo đúng nghĩa nông dân đồng bằng Bắc bộ, cũng không hẳn là thị dân, cũng không hẳn là tiểu thương. Chính lớp người này vẫn còn nhiều và đặc trưng cho một tính cách Hà Nội truyền thống.

Ví dụ người dân các làng Ngọc Hà, Báo Thiên, Khánh Thụy, Chân Cầm, Tam Khương (Khương Thượng, Khương Trung, Khương Hạ), Hoàng Mai, Hồng Mai, Bạch Mai, Tương Mai, Quỳnh Mai, Bát Giáp (từ Giáp Nhất đến Giáp Bát)… Người làng gần nội thành cũng có nét khác với người làng gần ngoại thành, ví dụ dân các làng Cầu Giấy, Nhân Chính, Yên Hòa, Yên Phụ, Nghi Tàm. Dân cư các khu vực bãi Phúc Xá, Phúc Tân mới hình thành sau những năm 1970.

Những người dân ở làng mạc trong Hà Nội thường không kinh doanh trong các khu phố cổ, hoặc là sau này, họ có nghề thủ công riêng, phần khác làm nông nghiệp hoa màu, chứ không phải trồng lúa, cung cấp cho dân thành thị. Kinh tế tự cung tự cấp và đời sống ít khắt khe như các làng xã đồng bằng khiến đời sống của dân làng nội đô tương đối thoải mái. Trong khi dân phố sống khá chật chội và mất vệ sinh, thì dân làng nội đô sống với diện tích khá lớn, có sân, vườn, ao, nhà xây gạch – một thứ điền viên ngay trong lòng đô thị quả là cảnh thần tiên.

Tính cách của người làng nội đô tương đối thuần khiết, ít cạnh tranh, lo gia đình, yên vui với cảnh nghèo mà nhàn nhã, không quá khách sáo như người phố cổ, cũng không quá quê mùa như người thuần nông, đồng thời họ cũng được hưởng những hoạt động văn hóa thành phố, mà những làng mạc địa phương không có được.

4. Tuy nhiên những cái làng này luôn có xu hướng phố hóa. Và dần dà trong suốt thế kỷ 20, nó bị phố hóa hoàn toàn.

Sự phố hóa các làng nội đô có nhiều lý do: hoặc do yêu cầu quy hoạch và xây mới của thành phố, hoặc do chế độ gia đình truyền thống bị phá vỡ, con cái được chia đất đai muốn xây nhà kiểu hiện đại, hoặc do bán từng phần và những người mới đến xây lại.

Có những làng biến đổi dần và xen kẽ kiến trúc đầu thế kỷ 20 với kiến trúc cao tầng từ những năm 1990, có làng bị xóa xổ gần như hoàn toàn và được xây lại thành một phân khu đô thị mới. Những làng biến đổi dần rất nan giải về đường giao thông hiện đại và giải tỏa đất đai do cũ mới ở thế cài răng lược, chưa kể đất đình đền chùa và mồ mả, không dễ xê dịch.

Ở nhiều làng nội đô, dù đã bị đô thị hóa hoàn toàn, nhưng nhiều tập tục cũ vẫn lưu truyền. Người dân vẫn ra lễ đình, họp dòng họ, làm việc làng, tổ chức lễ hội rước sách như thưở nào. Các tính cách cục bộ địa phương vẫn mạnh, và không chuyển sang xu hướng công dân như các đô thị hiện đại.

Mặc dù vai trò của hội đồng kỳ hào, kỳ mục và chính quyền làng không còn mạnh, vai trò tín ngưỡng cũng không lớn, nhưng cái nếp sống làng nội đô vẫn khó lòng mà thay đổi. Người dân làng nội đô có sự khôn ngoan láu cá riêng, có sự chân chất riêng, có tình làng nghĩa xóm riêng, đồng thời cũng có sự đầu gấu riêng… những tính cách mà dân phố phường thợ không có.

Từ một đô thị cho 30 nghìn dân đến một đô thị cho 3 triệu dân, có lẽ không phải chỉ là mở rộng đường, xây thêm nhiều nhà, mà là tổ chức lại một cách sống khác.

5. Sau năm 1954, Hà Nội có sự xáo trộn lớn, nhiều người vào Nam, nhiều người từ chiến khu về, nhiều cán bộ và sỹ quan lập nghiệp ở Hà Nội.

Có được hộ khẩu ở Hà Nội là cả một vấn đề, vì thủ đô cũng hạn chế sự gia tăng dân số. Dẫu vậy thì một lớp người mới từ miền Nam tập kết và từ các nơi khác có xu hướng định cư lâu dài và trở thành dân Hà Nội sau hòa bình. Ở Hà Nội cũng không ít người chuyển cả nhà đi khai hoang miền núi. Lớp người mới phần nhiều từ thanh niên đến trung niên: người chưa có gia đình thì lo lấy vợ lấy chồng Hà Nội, người có gia đình thì lo chuyển cả nhà về Hà Nội.

Những tư gia ở Hà Nội được phân chia lại, theo tiêu chuẩn một người /4m2. Từ năm 1954 – 1964, đất sân vườn ở các tư gia vẫn còn tương đối rộng, nhưng sau năm 1970, chúng bị chiếm hết do những căn nhà tư gia biến thành nhà tập thể và người ta lấn chiếm dần dần. Hình ảnh Hà Nội thay đổi trong từng căn nhà góc phố, các quan hệ hộ gia đình cũng trở nên căng thẳng, do nơi ở chật chội, bếp chung, nhà vệ sinh, nhà tắm chung, vòi nước chung, công tơ điện chung. Vừa thỏa hiệp vừa cãi nhau, sự lịch thiệp của người Hà Nội cũng suy thoái dần.

6. Sự tăng dân số Hà Nội, bắt đầu với nhịp độ nhanh từ năm 1973, sau Hiệp định Paris về Việt Nam, và sau năm 1975, khi đất nước thống nhất. Số người di cư vào TP.HCM và miền Nam nói chung không làm vơi đi số người vào Hà Nội.

Bốn huyện ngoại thành bị thu hẹp đất nông nghiệp trông thấy, các khu vực đầm lầy Giảng Võ, Kim Liên, Trung Tự, Thái Hà, Ngọc Hà, Bưởi, Láng, các bãi sông Hồng như Phúc Xá, Phúc Tân… trở thành các khu chung cư mới, được xây dựng theo kiểu tập thể bốn năm tầng và nhà tạm cấp bốn nhanh chóng trở nên chật chội, và tất cả những khoảng đất giữa các nhà cao tầng cũng nhanh chóng bị lấn chiếm.

Sinh viên tốt nghiệp không muốn trở về địa phương, công nhân xây dựng định cư tại chỗ, bộ đội phục viên, những trường học và công sở mới xây dựng… từng đợt, từng đợt nhiều lớp người từ mọi miền di cư vào Hà Nội, hình thành một những tính cách Hà Nội theo kiểu mới, trong đó tính cách cơ hội, chụp giật nổi bật.

Những người mới vào Hà Nội không phải ai cũng có nhà ngay, nhiều trai tân phải kết đôi với những cô gái “quá thì” để có hộ khẩu Hà Nội, nhiều cô gái ngoại tỉnh xinh đẹp sẵn sàng lấy các chàng trai “hoi” nội thành. Năm năm tồn tại ở Hà Nội và có một căn phòng là thành công mỹ mãn.

7. Trước khi có những căn nhà tập thể, quan hệ xóm giềng ở Hà Nội không khác mấy nông thôn, người ta qua lại nhau chơi thường xuyên. Nhưng sống trong nhà tập thể không ai biết ai, không ai thăm hỏi ai, cùng tầng có khóa chung, đóng cửa vào là không biết đến hàng xóm nữa. Đôi khi người ta cảm thấy như vậy còn tiện hơn lối quan hệ kiểu làng xã cổ phiền toái.

Ý thức công dân từ những năm 1975 cho đến nay giảm đi trông thấy, tất cả chỉ cần sạch nhà mình, quẳng rác ra đường, dắt chó sang cửa nhà hàng xóm ỉa, vòi nước công cộng chảy bao nhiêu cũng mặc kệ… không ai kiểm soát chất lượng đô thị ngày càng chịu sức ép của dân số quá lớn. Các căn nhà tha hồ xộc xệch và trở thành các chuồng chim, các cống rãnh ùn tắc, nhất khi trời mưa, các con đường sửa chữa theo kiểu cứ đổ cho cao dần lên (từ năm 1992 đến nay nhiều con đường đã cao hơn nhà đương thời tới 120cm), các hè đường chỗ nào cũng bấp bênh, lở loét, các mặt đường tuổi thọ chừng nửa năm là vênh váo.

“Mặc kệ” trở thành tính cách đặc trưng của Hà Nội hiện tại của cả người tốt lẫn người xấu. 

(Còn tiếp)

Tác giả