Vụ kiện làm thay đổi lịch sử Luật Bản quyền âm nhạc
Khi Johann Christian Bach theo đuổi vụ kiện các nhà xuất bản London vào thế kỷ 18, ông đã giành được quyền tác giả đối với các tác phẩm âm nhạc của mình. Chiến thắng của ông, sau mấy trăm năm, vẫn còn ảnh hưởng đến bối cảnh âm nhạc số ngày nay.

Trong khán phòng âm nhạc London thế kỷ 18, chỉ có số ít khán giả có thể hình dung ra những dòng suối âm thanh chảy trôi trong cả không gian lại trở thành chủ đề của một trong những trận chiến pháp lý gây tranh cãi bậc nhất lịch sử. Vậy mà trận chiến ấy đã diễn ra trong thời kỳ mà khái niệm “tác phẩm âm nhạc” lần đầu tiên được coi là một tài sản hợp pháp và được mang ra một phiên tòa xét xử.
Mối liên hệ giữa âm nhạc và luật bản quyền cho thấy những chuyển biến sâu sắc theo cách chúng ta hiểu về sự sáng tạo, quyền tác giả và bản chất của biểu hiện âm nhạc. Từ những tổng phổ âm nhạc được viết ra bằng bút lông ngỗng ở nhiều thế kỷ trước đến những sáng tác do các thuật toán AI sản sinh ra ngày nay, câu hỏi về việc ai là người sở hữu một sáng tạo âm nhạc, và thậm chí, cái gì tạo nên một sáng tạo như vậy – vẫn tiếp tục dội đến các khung khổ pháp lý của chúng ta và hiểu biết mang tính triết học của chúng ta.
Âm nhạc được luật pháp công nhận
Johann Christian Bach, người con út của nhà soạn nhạc huyền thoại Johann Sebastian Bach, tới London vào năm 1762. Với danh tiếng quốc tế của mình, ông được bổ nhiệm vào vị trí nhà soạn nhạc của vương hậu Charlotte. Ông không ngờ rằng mình lại trở thành nhân vật lịch sử trong câu chuyện về bản quyền âm nhạc.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1763, khi Johann Christian Bach nhận được một đặc quyền hoàng gia (royal privilege) từ triều đình – một loại giấy phép độc quyền do nhà vua cấp, cho phép người sở hữu được quyền xuất bản và bán tác phẩm âm nhạc của mình trong một thời gian nhất định (thường là 3–15 năm), và có quyền cấm người khác in lại hoặc bán tác phẩm mà không được phép của mình. Đây chính là hình thức bản quyền đầu tiên trong lịch sử âm nhạc cổ điển. Trong trường hợp của J. C. Bach thì thời gian độc quyền là 14 năm.
Câu hỏi về việc ai là người sở hữu một sáng tạo âm nhạc, và thậm chí, cái gì tạo nên một sáng tạo như vậy – vẫn tiếp tục dội đến các khung khổ pháp lý của chúng ta và hiểu biết mang tính triết học của chúng ta.
Ban đầu, J. C. Bach đã tự xuất bản các tam tấu “Op. 2” và các giao hưởng “Op. 3” dưới danh nghĩa cá nhân trước khi chuyển hướng tới những khám phá khác, phần lớn là một chuỗi các buổi hòa nhạc mà ông trực tiếp thực hiện cùng người bạn thân là nhà soạn nhạc Đức Carl Friedrich Abel tại Vauxhall Gardens ở London.
Tuy nhiên, ở thời nào cũng vậy, thành công thường đi kèm với sự ăn theo, sao chép. Vào năm 1773, J. C. Bach khám phá ra là nhà xuất bản nổi tiếng Longman & Lukey đã ấn hành nhiều tác phẩm âm nhạc của mình và bán chúng ra thị trường mà không xin phép, thu về lợi nhuận đáng kể từ sức lao động sáng tạo của mình.
Không giống như nhiều nhà soạn nhạc cùng thời, những người đành phải ngậm đắng nuốt cay chấp nhận tình thế, J. C. Bach tin tưởng vào vị thế, tiềm lực tài chính và cả sự quyết tâm để thách thức thực hành phổ biến đó thông qua các kênh pháp lý.
Đây là điều mới mẻ với luật pháp Anh, thậm chí chưa có tiền lệ với giới âm nhạc. Mặc dù Anh lúc đó đã có luật bảo vệ bản quyền Luật Anne (Statute of Anne), hay còn gọi là Luật Bản quyền 1709 hoặc Luật Bản quyền 1710, khi đề cập đến việc bảo hộ “sách và các tác phẩm viết khác” trong phạm vi tối đa 28 năm.

J. C. Bach rất tự tin bởi luật sư của ông là Charles Robinson, người từng đảm trách vị trí thẩm phán Canterbury. Vào ngày 18/3/1773, thông qua luật sư của mình, ông đã nộp đơn khiếu nại James Longman & Charles Lukey lên Tòa án Chancery, cáo buộc nhà xuất bản này in và bán hai tác phẩm ông sáng tác vào năm 1769 mà chưa nhận dược sự đồng ý của ông: đó là hai bản sonata cho đàn phím; một cung Sol trưởng cho đàn phím độc tấu, bị Longman & Lukey bán ra với tên gọi “Một bài tập mới cho đàn Harpsichord hoặc Piano Forte” và một bản sonata cung Fa trưởng cho đàn phím và viola da gamba (giờ đã bị thất lạc). Mặc dù đề cập đến đặc quyền hoàng gia như một bằng chứng bảo vệ nhưng ông cũng lập luận, mình xứng được bảo vệ bằng các quy định trong Luật Anne, trong đó quy định rằng tác giả của các cuốn sách có thể giữ độc quyền xuất bản trong vòng 14 năm kể từ thời điểm phát hành đầu tiên. Tuy nhiên, có một điểm trọng yếu trong Luật Anne là mới chỉ bao gồm “sách và các tác phẩm viết” mà không đề cập đến âm nhạc – không xem xét việc viết theo nghĩa rộng nhất về văn bản. Có thể chính các nhà xuất bản đã lợi dụng kẽ hở luật pháp đó để thu lợi nhuận từ xuất bản các tác phẩm âm nhạc.
Cuộc chiến pháp lý nổ ra rất gay cấn. Ban đầu nhà xuất bản cho rằng họ không nhận thức được J. C. Bach đã có đặc quyền hoàng gia, và đặt câu hỏi là liệu nhà soạn nhạc trên thực tế có phải là tác giả của hai bản nhạc kia không. Họ cũng đệ trình là họ chỉ nhận được các bản sao từ một nhà xuất bản địa phương, Adolphus Hummel – được cho là người mà J. C. Bach đã tặng các tác phẩm, và do đó được cho phép in và bán tác phẩm, và không phải trao trả khoản lợi nhuận ‘không đáng kể’ cho J.C. Bach”.
J.C. Bach buộc phải thay đổi hướng kiện một chút, và bổ sung thêm kiến nghị với nhà xuất bản, trong đó lập luận bản quyền tác phẩm viết tay phải được gắn vĩnh viễn với tác giả. Kiến nghị này đã không thành công, và một phán quyết vào năm 1775 đã tuyên bố “Hoàng gia không có thẩm quyền cấp các đặc quyền tạo ra độc quyền in ấn cho các cá nhân”, đã bác bỏ đặc quyền hoàng gia mà J. C. Bach sử dụng để tranh tụng pháp lý.
Khi thuật toán tạo ra một tác phẩm mới… ai sẽ sở hữu bản quyền tác phẩm đó?
Nhà soạn nhạc buộc phải dùng đến lập luận thứ hai, Luật Anne, khi cho rằng luật này cũng chi phối âm nhạc. Hai bên không ai chịu ai nên vụ kiện đã kéo dài bốn năm. Cho đến tháng 5/1776, vụ kiện được chuyển đến Đại Chưởng ấn (Lord Chancellor) rồi tiếp tục chuyển lên Tòa án King’s Bench. Vào ngày 16/6/1777, Tòa án King’s Bench chứng nhận với Tòa án Chancery rằng Luật Anne bảo vệ tác quyền âm nhạc. Phiên tòa được mở lại tại Tòa án Chancery vào ngày 8/7/1777, Lord Mansfield, một thẩm phán có tư tưởng tiến bộ, đã đưa ra một phán quyết mà sau được ví với một cuộc cách mạng trong âm nhạc “Nội dung của luật rất rộng với ‘sách và những tác phẩm viết tay khác’. Nó không chỉ bao hàm ngôn ngữ hay các chữ cái. Âm nhạc là một khoa học: nó có thể được viết ra; và cách thức truyền đạt ý tưởng bằng dấu hiệu và ký hiệu […]. Chúng ta đều nhận thức được là một sáng tác âm nhạc cũng là một tác phẩm viết trong khuôn khổ Luật Anne”.
Phán quyết này đã công nhận các ký hiệu âm nhạc cũng thuộc hạng mục ‘các tác phẩm viết tay khác’, và “coi ký hiệu như một hình thức ngôn ngữ viết”, “các ký tự hữu hình và đã được biết” cũng có thể “được tạo ra và tái tạo trong một hình thức hữu hình – một hình thức có thể được nhận diện, có thể phân biệt và phù hợp. Như vậy, nó thể hiện các đặc trưng cần thiết để định lượng như một dạng tài sản”.
Thẩm phán đã tuyên bố “Longman & Lukey phải trả cho J. C. Bach toàn bộ lợi nhuận từ việc bán hai tác phẩm âm nhạc, và nên nhận thức được rằng quyền tác giả của các tác phẩm này thuộc về J. C. Bach”.
J. C. Bach đã được ghi danh vào lịch sử âm nhạc, không chỉ vì ông là một trong số những nhà soạn nhạc có sức ảnh hưởng thời kỳ Tiền Cổ điển mà còn vì đã làm thay đổi quan điểm của luật pháp về âm nhạc. Vụ kiện J.C. Bach và Longman được coi là vụ kiện điển hình trong vòng sáu thập niên sau và được coi là tiền lệ quan trọng trong diễn giải về luật bản quyền có thể mở rộng đến các hình thức xuất bản khác ngoài văn học.

Đây cũng là một trong những cơ sở dẫn đến sự ra đời của Luật Bản quyền Anh năm 1842, cũng là một thắng lợi đáng kể khác của các nhà soạn nhạc khi mở rộng thời gian bảo hộ bản quyền từ 14 năm đến 42 năm và bao gồm cả các quyền biểu diễn công khai độc quyền, quyền xuất bản với các sáng tác âm nhạc. Công ước Berne năm 1886 đưa những quy định đó lên quy mô quốc tế. Trong danh sách các tác phẩm được công ước Berne bảo vệ có “các tác phẩm kết hợp âm nhạc, kịch, múa” và “các sáng tác âm nhạc có lời hoặc không lời” – khái niệm này còn có thể mở rộng cho opera, nhạc kịch và mọi hình thức âm nhạc ngày nay.
Khi các nốt nhạc được số hóa
Công nghệ đã làm thay đổi bối cảnh. Một trong những thay đổi là sự xuất hiện của mối quan hệ giữa các ký hiệu được ghi lại và bản thân âm thanh. Từ chỗ chỉ bảo hộ tác quyền âm nhạc thông qua các ký hiệu được viết, bản quyền tác giả trong âm nhạc được phát triển như một hình thức tích hợp quyền tác giả vào các văn bản viết.
Tuy nhiên, Luật Bản quyền Mỹ sửa đổi năm 1971 đã mở rộng bảo vệ bản quyền với các bản thu âm. Công ước Rome và một số hệ thống pháp luật dân sự khác cũng noi gương khi coi các nhà sản xuất những bản thu âm là những người nắm quyền liên quan. Các bản thu âm cũng được bảo vệ bản quyền như tác phẩm độc lập, bên cạnh bản quyền với tác phẩm âm nhạc thông thường. Đây là lĩnh vực nghệ thuật duy nhất được luật bản quyền bảo vệ mà có sự phân biệt giữa tác phẩm và hình thức thu âm của nó.
Đây cũng là một lớp bổ sung thêm cho tính phức tạp trong kỷ nguyên hiện đại: khi quyền mới đóng vai trò bảo vệ các bản thu âm trong thế kỷ 20, bản quyền thu âm, một hình thức hàng hóa mới. Tuy nhiên, có một điểm mù trong trường hợp này là bên sáng tạo được xác định như thế nào. Khi một thuật toán tạo ra một tác phẩm âm nhạc mới, ai sẽ sở hữu bản quyền tác phẩm đó? Cuộc thảo luận về việc liệu một tác phẩm do AI tạo ra có nên được ghi nhận quyền tác giả, hay có thể là một chủ thể quyền liên quan, vẫn còn rối bời.
Các công nghệ số đã được tạo thành từ nhiều công cụ riêng rẽ – nhạc cụ, thiết bị ghi âm, máy tính – về cơ bản thay đổi quá trình sáng tạo và cách chúng ta khái niệm hóa quyền sở hữu. Thời đại số đã tạo ra những hình thức sáng tạo âm nhạc hoàn toàn mới, được biểu hiện thông qua các khái niệm khác biệt so với những thời kỳ trước.
AI tạo sinh âm nhạc và bản quyền
Khi nhìn về tương lai, sự xuất hiện của AI trong sáng tác âm nhạc có lẽ cho thấy thách thức sâu sắc nhất về khái niệm quyền tác giả và bản quyền âm nhạc. Khi một thuật toán được huấn luyện bằng hàng ngàn sáng tác của con người để tạo ra một tác phẩm mới mà âm thanh của nó có thể phân biệt được với tác phẩm của nhà soạn nhạc bằng xương bằng thịt, thì ai sẽ là bên sở hữu bản quyền tác phẩm đó?
Câu hỏi này phản ánh những vấn đề cơ bản dấy lên từ trường hợp Bach và Longman nhưng với những chiều mới mà tòa án thế kỷ 18 có thể chưa bao giờ tưởng tượng ra.
Khi Lord Mansfield xác định ký hiệu âm nhạc cũng có thể được xem xét như một ‘tác phẩm’ theo quy định của Luật Anne, các tòa án ngày nay cũng phải vật lộn với việc xác định liệu âm nhạc do AI tạo ra có phải là một tác phẩm có bản quyền hay không.
Thách thức này càng thêm phức tạp bởi vì các hệ AI phá vỡ những khái niệm sáng tạo truyền thống. Trong khi con người thiết kế thuật toán và cung cấp dữ liệu huấn luyện thì AI tự nó tạo ra thứ âm nhạc mới với sự tự chủ ngày một gia tăng. Điều này làm dấy lên những câu hỏi sâu sắc về việc liệu các khung khổ bản quyền truyền thống có thể phù hợp với những phát triển công nghệ đó hoặc liệu toàn bộ các cách tiếp cận mới có cần thiết.
Trước những câu hỏi quan trọng này, Văn phòng Bản quyền Mỹ, từ đầu năm 2023, đã lập một sáng kiến để xem xét các câu hỏi nảy sinh từ sự giao thoa của bản quyền và AI. Ý kiến của các nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhà xuất bản âm nhạc, nhà thu âm… đại diện cho gần như toàn bộ nền công nghiệp âm nhạc Mỹ cho thấy có mấy lo ngại về sự an toàn trong sáng tạo và công việc của họ, bao gồm quyền tác giả của các nghệ sĩ bằng xương bằng thịt và tác động của AI lên sự sáng tạo của con người; các ảnh hưởng về người lao động khi nội dung của AI tạo sinh có thể lấn át tác phẩm của con người trên thị trường; kiểm soát và bồi thường thiệt hại với việc sử dụng tên tuổi cá nhân và tác phẩm có bản quyền… Các nhà làm luật cũng nhận ra rằng, từ hàng thập kỷ nay, các nghệ sĩ đã sử dụng công nghệ để nâng cao, chỉnh sửa và bổ sung cho các tác phẩm của mình. Ở Mỹ, trong một hệ thống chồng chéo luật hướng dẫn việc sử dụng hình ảnh cá nhân và giọng nói nhưng vẫn có những khoảng trống chưa được xem xét trong việc ai được bảo vệ và cấm dạng hành vi nào.
Quan điểm của cơ quan này là trong quá trình xác định bản quyền thuộc về ai, con người hay AI, cần phân biệt giữa việc sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ sáng tạo và việc sử dụng AI để thay thế cho sự sáng tạo của con người bởi sự khác biệt sẽ nằm ở việc AI làm nâng cao khả năng biểu đạt của con người hay là nguồn gốc của các lựa chọn biểu đạt. Tại Trung Quốc, một tòa án vào đầu năm 2025 đã công nhận bản quyền cho một bức tranh được tạo ra bằng AI, sau khi xác định tác giả là con người đã thể hiện đủ sự sáng tạo trong việc sử dụng công cụ AI và sau đó chỉnh sửa kết quả. Hàn Quốc cũng đã cho phép đăng ký bản quyền một bộ phim do AI tạo ra, trong đó đội ngũ tác giả bằng xương bằng thịt đã có sáng tạo trong việc lựa chọn, phối hợp và sắp xếp các thành phần mà AI tạo ra.
Vẫn là bản giao hưởng chưa hoàn thành
Cuộc du hành từ vụ án điển hình của J. C. Bach đến những thách thức số và AI ngày nay cho thấy một khuôn mẫu nhất quán: luật bản quyền phải có bước tiến cùng sự thay đổi công nghệ và sự tiến hóa của các khái niệm sáng tạo. Lịch sử của bản quyền âm nhạc, theo nhiều cách, là lịch sử của những nỗ lực tái định nghĩa cái không thể định nghĩa để nhắm bắt trong ngôn ngữ pháp luật cái ý nghĩa khó nắm bắt của sáng tạo âm nhạc. Từ tuyên án của Lord Mansfield đến công ước Berne đã tích hợp các tác phẩm âm nhạc, bất kể được định nghĩa như thế nào, với các luật hiện đại phân tách tác phẩm từ bản thu âm, từng khung pháp lý phản ánh các thực tại công nghệ và các giả định triết học của thời đại.
Khi đứng ở ngưỡng cửa cuộc cách mạng AI trong sự sáng tạo âm nhạc, có lẽ bài học giá trị nhất từ lịch sử này không chỉ ở bất kỳ học thuyết pháp luật cụ thể nào mà còn là sự ghi nhận sự tiến hóa của các khái niệm về tác phẩm âm nhạc và quyền tác giả của chúng ta.
Hãy hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu những nhà đàm phán Berne quyết định định nghĩa này từ năm 1886. “Tác phẩm âm nhạc” là một khái niệm pháp lý được sinh ra từ quyết định của J. C. Bach trong việc đòi công nhận quyền sáng tạo của mình – và nó tiếp tục chuyển đổi với từng phát triển công nghệ mới và sáng tạo nghệ thuật.
Thách thức với Luật Bản quyền trong thế kỷ 21 là giữ mục tiêu cơ bản của bản quyền: ghi nhận và bảo vệ những gì mà con người sáng tạo trong mọi hình thức biểu đạt. Di sản của J. C. Bach, trong bối cảnh hiện nay không chỉ là một tiền lệ trong bảo vệ sự sáng tạo của con người – mà còn là một bản giao hưởng chưa hoàn thành của tư duy pháp luật. Tư duy ấy vẫn tiếp tục tiến hóa song song với mỗi cuộc cách mạng công nghệ mới và hoạt động nghệ thuật mới.
Khi đối mặt với những thách thức của AI và của các công nghệ có thể xuất hiện tiếp theo, chúng ta có thể phải nhớ rằng các câu hỏi mà chúng ta đặt ra ngày hôm nay về quyền tác giả và sự sáng tạo cũng là tiếng vọng từ trường hợp ban đầu, trong phòng xử án London 250 năm trước, bởi một nhà soạn nhạc quyết định tuyên bố điều ông tin là của mình một cách đúng đắn.□
Tô Vân tổng hợp
https://interlude.hk/composers-in-the-court-room-johann-christian-bach-versus-longman-lukey
“The Emergence of Musical Copyright in Europe from 1709 to 1850”. Frederic M. Scherer. Harvard University – Harvard Kennedy School (HKS)
Bài đăng Tia Sáng số 23/2025
