"Về nguyên tắc làm chip, phải làm sao cho giá thành rẻ, chip mà không rẻ thì không nói chuyện", Kỹ sư Nguyễn Thanh Yên, Tổng Giám đốc Công ty Vi mạch CoAsia Semi tại Việt Nam và quản trị viên Cộng đồng Vi mạch Việt Nam, người có hai mươi năm làm vi mạch ở nước ngoài và Việt Nam, nhấn mạnh trong cuộc trao đổi với báo KH&PT.
Thật ngạc nhiên khi ông nói rằng chip rất rẻ, bởi thường người ta chỉ nói đến tính phức tạp về công nghệ, đắt đỏ và đầu tư vô cùng lớn khi sản xuất chip.
Từ khởi thủy của ngành bán dẫn đến giờ, ở tất cả các trung tâm bán dẫn trên thế giới đều có hai đặc tính sở hữu và hàng loạt.
Đầu tiên tôi muốn nói tới tính sản xuất hàng loạt. Ví dụ năm 2021, thế giới bán được 1.000 tỉ chip, nhưng tổng thu khoảng 500 tỷ USD, nên tính ra trung bình một con chip chỉ có giá 0.5 USD, tức là về nguyên tắc làm chip phải làm sao cho giá thành rẻ, chip mà không rẻ thì không nói chuyện. 1.000 tỉ chip chia cho 8 tỉ người, thì mỗi người một năm tiêu thụ trên 100 con chip. Chúng ta có lẽ không hình dung được rằng xung quanh mình chip lại phổ biến đến thế. Tất cả mọi thiết bị điện tử bây giờ hầu như thiết bị nào cũng có chip ở trong, chúng âm thầm đi vào đời sống, xuất hiện bên cạnh chúng ta nhưng chúng ta gần như không hề để ý tới sự tồn tại của chúng. Đây chính là tính sản xuất hàng loạt.
Chỉ khi có thể sản xuất hàng loạt, số lượng lớn, đảm bảo được yếu tố giá rẻ thì mới có chỗ đứng trên thị trường. Điều đó sẽ quyết định đến việc, giả sử chúng ta tham gia vào sản xuất thì chúng ta phải tìm được thị trường có thể tiêu thụ số lượng rất lớn, ví dụ chẳng hạn ngay thị trường nội địa có nhu cầu gì cần đến hàng triệu chip hay là hàng chục triệu chip mỗi tháng không? Ví dụ hẹp hơn như chip cho sản phẩm di động thì một tháng có bán được một triệu sản phẩm này không? Nếu không bán được đồng nghĩa với việc chúng ta không đạt được tính sản xuất hàng loạt của nhà máy, vì thị trường không có. Cùng một suất đầu tư, phải sản xuất hàng chục triệu cái trở lên, giống hệt nhau, không sai một tí nào thì mới rẻ được, còn nếu sản xuất và bán được ít, hoặc rủi ro sản phẩm bị lỗi thì giá thành từng con chip cực kỳ đắt. Cho nên tính sản xuất hàng loạt đó là cái cơ bản nhất của vi mạch.
Ông nói tới việc tìm thị trường và bán hàng – điều rất cơ bản trong sản xuất và kinh doanh bất kỳ mặt hàng nào nhưng dường như còn ít được nhắc tới khi thảo luận về việc tham gia chuỗi giá trị bán dẫn ở Việt Nam?
Đây là câu chuyện thứ hai – tính sở hữu. Cùng để ý thì chúng ta thấy bây giờ mọi người hay nói về việc tham gia chuỗi giá trị, rằng thiết kế (design) là ở mức cao nhất hay sản xuất thì ở đáy. Nhưng cần tỉnh táo để tránh nhầm lẫn ở đây: Nếu chúng ta sở hữu nhà máy sản xuất thì mới có được 19% lợi nhuận, chúng ta sở hữu phần design thì mới có được 53% lợi nhuận của design. Còn nếu chỉ là nơi để một chủ sở hữu đặt nhà máy còn ta không sở hữu, hoặc nhận design thuê cho một bên khác là chủ sở hữu thì sẽ không được một chút nào trong 19% hay 53% đó, vì chúng ta chưa sở hữu bất cứ một khâu nào trong đó kể cả khâu bán hàng nếu chúng không có thị trường.
Trong phòng nghiên cứu EDABK, thuộc PTN thiết kế mạch tích hợp và tích hợp hệ thống tại Đại học Bách khoa Hà Nội (HUST). Ảnh:HUST
Ví dụ ở khâu design mà chúng ta đang có lợi thế nguồn nhân lực, nhìn vào bức tranh chi tiết hiện tại chúng ta chỉ đang có “tập đoàn nước ngoài trả lương cho kỹ sư người Việt”, hoặc nhà máy sản xuất bán dẫn cũng thế, tức là “tập đoàn nước ngoài trả lương cho kỹ sư, công nhân người Việt”. Thế thì trong cả chuỗi giá trị ấy, người sở hữu con chip không phải chúng ta. Người sở hữu ấy sẵn sàng thuê nhóm anh với giá rất cao nếu nhóm anh design một lần mà chip chạy và bán được luôn, giá thuê có thể lên tới cả triệu đô. Nhưng nếu họ làm cả triệu con chip thì giá trị đóng góp phần thiết kế của nhóm anh cho một con chip chỉ còn 1 USD, nếu họ làm ra cả tỉ con chip thì giá trị thiết kế của nhóm anh chỉ còn rất bé, gần bằng không.
Dù thiết kế, sản xuất bán dẫn bao gồm rất nhiều khâu, công đoạn, chuỗi giá trị bán dẫn có rất nhiều bên tham gia, nhưng đặt trong bối cảnh phải đáp ứng được hai điều cốt lõi ở trên thì nên đặt ra câu hỏi: nếu xây dựng ngành bán dẫn thì chúng ta đang sở hữu những gì? có khả năng đạt được tính sản xuất đại trà hay không? Trả lời một cách cặn kẽ sẽ giúp chúng ta định hình bức tranh bán dẫn mà chúng ta đang có, tiếp đó lựa chọn cách làm phù hợp.
Là người tham gia vào ngành bán dẫn 20 năm nay, ông thấy bức tranh của chúng ta đang đáp ứng các yếu tố trên đến đâu?
Có thể nói trong 20 năm qua bước phát triển đáng kể nhất trong lĩnh vực bán dẫn của Việt Nam là đã sở hữu được đội ngũ nhân lực khoảng 5.000 kỹ sư thiết kế chip, cùng với đó là một lực lượng đáng kể nhân lực làm trong các nhà máy trong lĩnh vực đóng gói kiểm thử. Đội ngũ này đang tỏa ra làm việc ở các nước có ngành công nghiệp bán dẫn tiên tiến và đang giữ mối liên hệ rất thân thiết với đội ngũ chuyên gia Việt kiều và kinh nghiệm làm việc với các đối tác quốc tế tầm cỡ.
Một điểm nổi bật nữa có thể kể tới là bên cạnh việc xuất hiện ngày càng nhiều các hãng lớn có tên tuổi vào đầu tư ở Việt Nam, các trung tâm nghiên cứu về bán dẫn thuộc các đại học, viện, trường, … thì còn xuất hiện các công ty trong nước kinh doanh thiết kế, sở hữu sản phẩm, lõi IP (lõi sở hữu trí tuệ bán dẫn – semiconductor intellectual property core – là một bộ phận thiết kế cho phép tái sử dụng) và bước đầu thương mại hóa chip.
Cuối cùng, không thể không nói tới việc Chính phủ trong năm 2024 đã kịp thời công bố chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn quốc gia và gần đây nhất Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt nhằm tạo đột phá phát triển KH&CN, ĐMST và chuyển đổi số đã quyết định sẽ hỗ trợ lên tới 30% suất đầu tư cho nhà máy (fab) do doanh nghiệp Việt Nam đầu tư.
Trong 66 năm qua, thị trường bán dẫn đã đạt được 500 tỷ USD, nhưng chỉ trong một thập kỷ gần đây, giá trị thị trường của chất bán dẫn đã tăng gấp đôi lên trên 1.000 tỷ USD. (*)
Nhưng sau đó cũng phải nhìn sâu vào hai điểm cốt lõi là đã đáp ứng được tính sở hữu và tính sản xuất hàng loạt chưa?
Hình dung về thị trường và ngành sản xuất này quá rộng, vì con chip bản thân nó đang trở thành một hình ảnh minh họa tuyệt vời khi nói tới tính toàn cầu hóa, ví dụ, cát có độ tinh khiết cao từ sa mạc của Trung Quốc được tinh luyện thành các trụ silic đơn tinh thể, các nguyên liệu pha tạp dùng trong quá trình sản xuất được các công ty Nhật Bản cung cấp, máy móc sản xuất quan trọng nhất được thiết kế ở châu Âu, … tất cả tập trung tại nhà máy sản xuất chip ở Đài Loan. Thiết kế bắt đầu bằng lõi IP ở Anh, chuyển tới Mỹ để thiết kế, bản thiết kế được đưa tới nhà máy tại Đài Loan để chế tạo, tấm wafer sau đó được chuyển tới Đông Nam Á để đóng gói, kiểm tra, chip được đưa tới Trung Quốc để làm ra chiếc máy điện thoại, chiếc máy điện thoại đó được đưa tới Mỹ để bán.
Nhưng khi hiểu sâu về chuỗi và thị trường, sẽ nhận ra một bàn tay vô hình đóng vai trò chủ đạo, tạo ra mối liên kết giữa các mảnh ghép ở khắp nơi trên thế giới trong việc thiết kế, chế tạo và bán ra con chip. Đó chính là bàn tay của người “sở hữu sản phẩm chip.” Một khi chúng ta chưa là người sở hữu thì chúng ta chỉ là các mảnh ghép rời rạc, thậm chí là khi thiếu vắng các công ty nội địa thì có thể nói chúng ta còn chưa sở hữu được mảnh ghép rời rạc nào. Làm sao để tập hợp tất cả những đội ấy lại với nhau?
Chúng ta đang thiếu doanh nghiệp lớn trong ngành bán dẫn, sở hữu và bán hàng, đóng vai trò là cánh chim đầu đàn để kết nối cả đàn lại với nhau, từ thiết kế, sản xuất, phân phối đến bán hàng, kể cả làm chính sách. Thiếu đi tính sở hữu khi tham gia chuỗi giá trị bán dẫn thì giá trị của chúng ta sẽ rất thấp.
Ngay cả lợi thế lớn nhất của chúng ta là đội ngũ thiết kế chip thì đội ngũ này cũng đang làm cho các tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài khác nhau, sản phẩm của họ là cho các ứng dụng khác nhau, mô hình kinh doanh của họ cũng khác nhau, nghĩa là ngay cả đội ngũ kỹ sư thiết kế của chúng ta cũng mới chỉ dừng lại ở việc là từng kỹ sư có năng lực thực thi thiết kế ở các khâu, công đoạn thiết kế khác nhau. Ngay cả khi đã trải qua một thời gian dài (20 năm), kỹ sư Việt Nam chứng minh được năng lực trong công việc, ngày càng được giao những công việc đòi hỏi chuyên môn cao và nhiều thách thức trong các dự án thiết kế chip quan trọng của tổ chức, thì giá trị của kỹ sư Việt Nam vẫn chỉ thuần túy ở khía cạnh giỏi chuyên môn nhưng rời rạc. Kỹ sư Việt Nam đa phần làm cho các doanh nghiệp FDI, các công ty FDI họ mở ra cái gì thì mình biết cái đó, thuê làm thiết kế về tương tự, thiết kế về số, hay là layout, test… thì kỹ sư mình làm chứ họ không có nhu cầu phải cho mình biết tất cả.
Như vậy là hệ sinh thái chưa hoàn chỉnh, hai tầng rời rạc: tầng thứ nhất là chưa sở hữu, chưa có nhà máy, các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi bán dẫn mới chỉ ở các công đoạn khác nhau; tầng thứ hai, cũng là hệ quả của tầng thứ nhất, là kỹ sư, dù lành nghề thiết kế ở từng công đoạn cũng khó kết nối được gì với nhau. Trừ khi chính bên sở hữu nắm được các đầu mối đó và yêu cầu cung cấp thông tin thì mình mới kết nối được với nhau.
Chúng ta đang thiếu doanh nghiệp lớn trong ngành bán dẫn, sở hữu và bán hàng, đóng vai trò là cánh chim đầu đàn để kết nối cả đàn lại với nhau, từ thiết kế, sản xuất, phân phối đến bán hàng, kể cả làm chính sách. Thiếu đi tính sở hữu khi tham gia chuỗi giá trị bán dẫn thì giá trị của chúng ta sẽ rất thấp.
Nhu cầu ô tô, AI và máy tính lượng tử có ý nghĩa quyết định, chẳng hạn từ năm 2025 đến 2030, AI sẽ sử dụng đến 50% lượng bán dẫn được bán ra trong năm năm tới (*).
Nhìn theo thông lệ quốc tế đầu tư như thế nào? Từ các trung tâm công nghiệp bán dẫn, chúng ta có thể học hỏi được gì?
Nhìn các trung tâm công nghiệp bán dẫn gần đây như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… chính phủ không chỉ đưa ra các chính sách ưu đãi cho ngành bán dẫn – ngành có tính nền tảng và tác động lớn đến nền kinh tế, mà trực tiếp chính phủ và các doanh nghiệp lớn trong nước đều phải đổ tiền đầu tư vào cánh chim đầu đàn đủ năng lực, với sự quyết tâm, sự kiên trì và ngay cả tinh thần chấp nhận hy sinh, rủi ro. Nhìn vào lịch sử phát triển ngành bán dẫn chúng ta rất dễ nhận thấy rằng muốn có một nền công nghiệp bán dẫn thì phải nói về nhà máy sản xuất bán dẫn. Sở hữu nguồn nhân lực là chưa đủ, chỉ khi sản xuất thì chúng ta mới tìm ra cách để hiện thực hóa các ý tưởng một cách hiệu quả, có thể thương mại hóa thành công được và có thể thực sự sở hữu bí quyết công nghệ. Nhà máy (Fab) đóng vai trò là cánh chim đầu đàn dẫn dắt cả hệ sinh thái đi theo, sẽ đỡ đầu cho các công ty khởi nghiệp về design house ở Việt Nam.
Nói tới nhà máy wafer fab là nói về khoản đầu tư vô cùng lớn, thời gian thực hiện rất dài. Với xuất phát điểm còn thấp, rời rạc hiện nay điều đó quả thực khó, nhưng đó là điều gần như bắt buộc phải làm nếu muốn theo đuổi ước mơ phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.
Ở Việt Nam có các tập đoàn lớn rất thành công tuy nhiên để một bên bỏ ra một khoản, đầu tư lớn sẽ là rất rủi ro, hoặc ngay từ đầu sẽ có xung đột lợi ích khi các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để lấy được hỗ trợ từ nhà nước chẳng hạn. Nếu các tập đoàn kinh tế lớn hợp tác đầu tư nhà máy sản xuất bán dẫn thì sẽ giảm rủi ro hơn và sẽ không phải là một sự đầu tư vượt xa năng lực hiện có của một tập đoàn đơn lẻ. Ngoài ra sự hợp tác này còn tạo ra sự đoàn kết tránh đi sự cạnh tranh nội địa, một yếu tố rất thuận lợi cho đầu ra của sản phẩm chip sau này.
Về thị trường, cũng không tới mức không có thị trường, bởi thị trường nội địa một trăm triệu dân không phải là quá lớn nhưng cũng không phải quá nhỏ, nếu cánh chim đầu đàn ấy có được hậu thuẫn của chính phủ, đầu tư của các tập đoàn lớn trong nước thì có đủ thế để đi đàm phán với các doanh nghiệp FDI về việc cần phải ưu tiên dùng sản phẩm chip nội địa để được hưởng ưu đãi đầu tư và nguồn lực nhân công ở Việt Nam. Về mặt phân khúc, bây giờ sẽ rất khó cạnh tranh trực tiếp với Intel hay Samsung ở phân khúc các chip quy mô lớn, phức tạp, chip có giá trị, nhưng có rất nhiều loại chip nhỏ, có tỷ trọng giá trị nhỏ đối với giá thành sản phẩm đầu cuối thì các khách hàng cũng không quá quan tâm đến chuyện dùng chip của thương hiệu nào miễn là chất lượng đảm bảo. Đồng thời, chi tiêu của chính phủ cho chính phủ số rất quan trọng. Khách hàng chính phủ là khách hàng rất lớn, hoàn toàn có thể đưa điều kiện đối với các công ty cung cấp sản phẩm cho chính phủ nếu sử dụng chip được sản xuất trong nước thì sẽ được ưu tiên ký hợp đồng với chính phủ. Việc đấy chính là đòn bẩy cho nhà máy này. Khi các doanh nghiệp FDI đã dùng sản phẩm của nhà máy này rồi, các hãng cung cấp cho chính phủ sử dụng rồi thì tự động sẽ tạo ra chuỗi các công ty ở giữa cung cấp module và các dịch vụ hỗ trợ, tự nhiên hệ sinh thái sẽ lên. Chưa kể, các fabless vẫn đang phải thuê nhà máy để sản xuất mà. Cho nên nhà máy sẽ là cánh chim đầu đàn giúp cả hệ sinh thái.
Để đáp ứng các nhu cầu bùng nổ trên, ngành công nghiệp bán dẫn trên toàn thế giới đã đầu tư rất mạnh vào các nhà máy sản xuất (front-end). Có 104 nhà máy (fab) về front-end để làm chất bán dẫn đang được xây dựng từ năm 2024 đến 2027. Năm năm tới là giai đoạn bản lề – theo dự đoán của các chuyên gia trong ngành, từ năm 2025 đến 2030, thị trường bán dẫn sẽ tăng thêm 400 tỷ USD. Về mặt nguồn nhân lực, thế giới sẽ cần hơn 1 triệu công việc liên quan đến kỹ thuật cao. Tuy nhiên, so với đào tạo hiện nay, dự đoán sẽ có khoảng 60% các công việc này không thể tìm đủ người làm (*).
Trước mắt, khi chưa có được điều kiện lý tưởng đó, người làm bán dẫn vẫn đang đeo đuổi ước mơ nhỏ nào? bán dẫn trong nước vẫn có thể có những bước phát triển mới nào?
Dù ước mơ lớn hay nhỏ thì cũng liên quan đến một gợi ý rất quan trọng cho chính sách hỗ trợ để phát triển nguồn nhân lực: Để gây dựng được đội ngũ kỹ sư lành nghề thì cần rất nhiều thời gian thực hành trong các doanh nghiệp, trong khi đó các doanh nghiệp (chủ yếu là nước ngoài, thị trường của doanh nghiệp nội địa gần như rất ít ỏi) thuê nguồn nhân lực của mình không có nghĩa vụ phải đào tạo kỹ sư mới ra trường thành lành nghề, họ chỉ muốn tìm nguồn lực tốt ngay và trả lương rất cao, còn kỹ sư mới ra trường thì họ rất kén chọn và trả lương rất bình thường. Nếu chỉ tập trung ưu đãi cho chuyên gia thì chưa đủ vì họ luôn được các công ty săn đón với chế độ đãi ngộ rất cao. Vậy khi chưa có được ước mơ lớn của cả nền bán dẫn thì làm thế nào tăng được nguồn nhân lực chất lượng cao nhanh như kỳ vọng? Cần có chính sách ưu đãi, có thể là hỗ trợ thuế để các công ty có động lực tuyển kỹ sư trẻ mới ra trường. Khi đó thị trường rất đẹp, không tạo ra độ chênh quá lớn, level trên thì tranh nhau, còn level dưới thì hàng loạt hồ sơ không ai nhận. Hỗ trợ này hiệu quả, giúp xây dựng đội ngũ cho ngành, còn miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thì tôi cũng nói rất nhiều lần là những công ty FDI như chúng tôi hầu như không có thu nhập vì doanh nghiệp nước ngoài vào đây chỉ để thuê người, thuê văn phòng, chứ không để ghi nhận lợi nhuận doanh nghiệp ở đây, vì sản phẩm mới chỉ dừng lại ở thiết kế thôi, còn qua nhiều công đoạn nữa thì mới ra chip.
Về tính sở hữu, liệu chúng ta cũng có được những những hy vọng mới nào trong bức tranh rời rạc?
Một điểm đáng chú ý là có các công ty trong nước kinh doanh thiết kế, sở hữu sản phẩm, lõi IP và bước đầu thương mại hóa chip. Một số nhóm, kể cả tuổi đời còn trẻ, đã làm ra lõi IP và bán được cho các hãng làm chip. Có thể mới đầu chưa tạo ra nhiều doanh số nhưng có khách hàng đầu tiên, có mua bán, trao đổi là rất tuyệt vời, vì nó khác với việc ta chỉ làm một chiều, đi làm thuê cho người khác mà bắt đầu có tính sở hữu cái của mình, đã làm ra sản phẩm đến khách hàng cuối, đã khắc phục được một phần nào đó tính rời rạc.
Dù nếu chỉ có những điểm sáng lóe lên trong bức tranh tổng thể còn rời rạc của ngành thì sẽ … rất cô đơn. Nhưng ít nhất là có những người dũng cảm đi đầu như thế còn hơn không, những người tiếp theo sẽ học được từ đó để đi nhanh hơn. Có điểm khởi đầu như thế là rất vui mừng, những người đi sau sẽ học được nhiều.
Cảm ơn ông về cuộc trao đổi!
(*) Bài trình bày của bà Nguyễn Bích Yến, nghiên cứu viên cao cấp, Công ty Soitec (Mỹ), tại tọa đàm“Chiplet và cơ hội tham gia chuỗi giá trị bán dẫn” do Tia Sáng/KH&PT và Cộng đồng Vi mạch Việt Nam tổ chức.